![]() |
|
![]() |
|
![]() |
#4
|
|||
|
|||
![]() Chương 4: KHỞI ĐẦU Cơn băo táp vần vũ thế giới. Đâu đâu cũng nghe những lời bàn tán về cuộc chiến tranh đang đến gần. Thực phẩm biến đi khỏi các cửa hàng và chợ. Những người hàng xóm thường tụ tập trong sân nhà Vanga. Họ nói với nhau những chuyện đầy lo âu. Vanga thỉnh thoảng lại nói là cần quyên góp tiền cúng cho nhà thờ Mười lăm vị Thánh tử v́ đạo. Một năm nữa chiến tranh sẽ bắt đầu. Vanga báo trước, chỉ có sự hào phóng mới cứu được thành phố khỏi phá huỷ. Những người hàng xóm tiếc tiền không muốn làm. Vanga kiên tŕ nhắc lại rằng cô nh́n thấy trong mơ những sự kiện đáng sợ của cuộc chiến tranh sắp tới. Nó sẽ nổ ra trong năm 1941, vào tháng tư. Cả năm 1940 trôi đi trong sự chờ đợi lo âu. Và vào đầu năm 1941… “Ông ta cao lớn, tóc sáng màu và đẹp thiên thần. Những giáp trụ binh khí chiến binh của ông toả sáng dưới ánh trăng. Con ngựa có túm đuôi trắng lấy móng cào cào đất. Người kỵ sĩ dừng lại trong sân, xuống ngựa rồi bước vào căn pḥng tối. Ông ta toả ra một ánh hào quang làm căn nhà sáng lên như ban ngày. Quay về phía Vanga, vị khách nói bằng giọng trầm: “Mọi thứ trong thế giới sẽ bị đảo lộn, rất nhiều người sẽ chết. Nhưng cô sẽ ở lại đây và sẽ thông báo về những người sống và những người chết. Đừng sợ, ta sẽ ở ngay bên cạnh. Lúc nào ta cũng ở bên để giúp cô”. Vanga hỏi em gái: “Liupka, em có nh́n thấy người kỵ sĩ không, ông ấy mới phi ngựa ra từ sân nhà ta”. “Người kỵ sĩ nào? – Em gái hỏi. – Chị có biết bây giờ là mấy giờ rồi không? Có lẽ chị vừa mới ngủ mê ấy”. “Chị không rơ, có thể là chị ngủ mơ, nhưng đó là một kỵ sĩ lạ lùng và giấc mơ cũng thật lạ lùng. Em nghe này…” Vanga lo lắng kể lại giấc mơ cho Liupka và cả hai chị em không chợp mắt nổi cho đến sáng. Ngày 8 tháng 4 năm 1941, đúng như Vanga đă tiên đoán một năm trước đó, quân đội Đức vượt qua biên giới Nam Tư. Buổi sáng, tất cả dân phố Xtrumitse đều đi kiếm nơi ẩn nấp. Chỉ có Vanga và Liupka là ở lại nhà. Đến trưa th́ trên đường phố đă vang lên tiếng động cơ của các loại xe hạng nặng. Xe tăng Đức tràn vào thành phố. Hai chị em nghe những tiếng la hét, tiếng gót giầy th́nh thịch, quân Đức đang lùng t́m cướp tài sản, súc vật và của cải. Cánh cửa bật mở tung, một tên lính Đức hiện ra trong khung cửa. Hai chị em đứng giữa nhà, tái nhợt như những xác chết. Tên lính nh́n lướt qua gian nhà và cái sân trống không rồi bỏ đi: ở đây chẳng có ǵ để cướp cả. Hai ngày sau những người hàng xóm mới lục đục trở về. Nhiều người kéo đến nhà Vanga xem t́nh h́nh hai chị em ra sao. Nhưng họ khinh ngạc không dám bước vào nhà. Họ không nhận ra Vanga nữa. Sau mấy tiếng đồng hồ, Vanga đă thay đổi đến mức không c̣n nhận ra được nữa. Vanga đứng ở một góc pḥng và nói bằng một giọng to, mạnh và đầy tự tin. Một sự căng thẳng nội tại thể hiện trong mỗi lời nói, mỗi hành động. Đôi mắt mù vẫn trống rỗng nhưng khuôn mặt cô biến đổi, trở nên sống động đến nỗi có cảm giác dường như từ gương mặt đó có ánh sáng tỏa ra. Từ miệng Vanga phát ra lời nói của người khác, nêu đúng tên, vị trí các sự kiện sẩy ra. Vanga nói về số phận của những người dân thành phố đă bị quân Đức bắt đi, ai c̣n ai mất, ai sẽ trở về và về khi nào… cảnh tượng kinh ngạc đến nỗi nhiều người bỗng có ư muốn quỳ sụp xuống trước mặt Vanga mà lạy như trước vị nữ Thánh. Sau đó, những người mà Vanga tiên đoán đă trở về đúng thời hạn như cô dự đoán. Tiếng đồn về Vanga, nữ tiên tri lan nhanh trong thành phố, người ta bắt đầu lũ lượt kéo đến nhà cô. Sau đây là một trong những trường hợp tiên đoán đầu tiên của Vanga. Vợ người hàng xóm Milan Nactenôp ngồi trong sân nhà Vanga và khóc bởi chồng bà bặt tin. Vanga nói với bà: “Cô đừng khóc, mà tốt hơn hết là đi giặt là quần áo và chuẩn bị bữa ăn tối cho chú ấy bởi đêm nay Milan sẽ trở về nhà. Cháu nh́n thấy chú ấy. Chú ấy đang nấp trong một cái vực cách không xa thành phố, trên người chỉ c̣n đồ lót thôi”. Người đàn bà nghĩ Vanga nói thế để động viên bà thôi nhưng cũng đi về nhà chuẩn bị cơm nước và quần áo của chồng. Đêm đó bà nằm không ngủ. Khoảng nửa đêm, có ai đó gơ vào cánh cửa sổ. Nh́n ra, chút nữa th́ bà ngất xỉu, chồng bà đang đứng ngoài sân, trên ḿnh chỉ c̣n đồ lót. Té ra ông vừa trốn khỏi trại tù binh của bọn Đức. Ngay từ đầu cuộc chiến, Vanga đă nói với một bà già hàng xóm, mẹ của Khrixôp là con trai của bà c̣n sống và sẽ trở về. Vợ chưa cưới của Khrixôp không tin và đi lấy người khác. Một năm sau, Khrixôp trở về và người đầu tiên nh́n thấy anh là người yêu cũ. Cô ta lập tức ngất xỉu. Bà già Khrixôp th́ suưt ngất đi v́ sung sướng. Từ hai sự việc này khiến người ta kéo đến gặp Vanga rất đông. Ai cũng muốn Vanga nói về số phận người thân của ḿnh. Vanga tiên đoán cho tất cả, và sau đó những lời tiên đoán đó đều trở thành sự thật. Vanga cũng nổi tiếng là một bà lang chữa được rất nhiều bệnh. Bà chỉ dùng các loại cây cỏ. Và điều thú vị là tri thức của bà làm các chuyên gia có kinh nghiệm lúng túng. Những phương thuốc của bà thường đơn giản nhưng cho hiệu quả rất cao. Chẳng hạn, Vanga đă chữa khỏi cho một người đàn bà bị suy nhược thần kinh bằng một loại cỏ mọc ven con sông nhỏ gần đấy. Người đàn bà lành bệnh và giờ đây, bà ta vẫn sống khoẻ mạnh ở lứa tuổi tám mươi. Vanga nói cho những người nông dân những ǵ làm họ lo lắng với độ chính xác tuyệt đối và giúp họ giải quyết các khó khăn. Một người nông dân ăn cắp một con lợn con của một bà goá nghèo. Vanga nói trắng ra giữa bàn dân thiên hạ câu chuyện nhục nhă đó. Kẻ ăn trộm len lén ra về. Ngay hôm sau, bà goá mở cửa đă thấy con lợn đang đứng ở trong sân. Dần dần, một huyền thoại về Vanga h́nh thành. Một số người sợ khả năng nh́n thấu của Vanga nên gán cho cô những đặc tính thần bí. Kết tội cô là phù thuỷ. Một số người lại thán phục tài năng tiên tri của cô, phóng đại những điều cô nói và gọi đó là những điều “kỳ diệu của kinh Thánh”. Vanga được toàn thể mọi người yêu mến. Sự kính trọng vẫn bao quanh Vanga cho tới ngày nay, giờ đây, Vanga vẫn tiếp tục được mời làm mẹ đỡ đầu cho những đứa trẻ mới sinh, được mời tới các lễ cưới. Mà không chỉ trong phạm vi vùng Petritrơ mà cả ngoài. Người ta mời bà những dịp lễ trong gia đ́nh v́ họ cho rằng sự có mặt của Vanga sẽ mang lại cho họ những điều may mắn, tốt lành, sự yên ấm, hoà thuận trong gia đ́nh. “Ngày 8 tháng 4 năm 1942 – Liupka kể – bà già Tina, một người quen của chúng tôi tới và nói rằng sẽ có một vị khách quan trọng tới thăm chúng tôi. Bà chỉ nói là năm 1918 ông ta đă trọ ở nhà bà. Bà ta đi ra rồi sau đó trở lại dắt theo một người đàn ông thâm thấp, mắt xanh, ria xén cẩn thận, mặc quân phục xám. Ông ta hỏi Vanga xem liệu chị có thể giành cho ông ta một thời gian không. Bà già Tina rỉ tai tôi: hăy nh́n ông ta cho kỹ, bởi đó chính là nhà vua Bungari – Vua Bôrits. Tôi ngạc nhiên, tôi chẳng bao giờ lại tưởng tượng nổi chuyện một vị vua tới thăm lều của chúng tôi. C̣n Vanga th́ lại đứng vào một góc pḥng quen thuộc và trước khi vị khách kịp nói điều ǵ, chị ấy nói bằng giọng nghiêm khắc. “Vương quốc của Người đang lớn lên, nó trải rộng, nhưng người hăy chuẩn bị sẵn sàng để bỏ sở hữu của ḿnh trở lại vào vỏ quả hồ đào – Rồi Vanga lặp lại – Hăy sẵn sàng. Sau đó im lặng, đoạn tiếp: - Hăy nhớ ngày 28 tháng 8!” Nhà vua không nói không rằng ra về trong trạng thái lo lắng. Ông chết ngày 28 tháng 8 năm 1943. Sau khi ông chết, ba người đàn bà từ Xôphia tới gặp chúng tôi. Họ nói họ là họ hàng của nhà vua và yêu cầu Vanga nói cho họ biết những ǵ đang đợi gia đ́nh nhà vua. Vanga trả lời: “Khi trở về, các bà hăy treo lên giường nhà Vua một dải băng màu đỏ”. “Thế có thể là băng màu hồng hay màu trắng được không?” Ba người đàn bà không bao giờ trở lại nữa. C̣n ngày 9 tháng 9 năm 1944, lá cờ đỏ chiến thắng tung bay trên cung Vua cũ. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
CM4Q (30-03-11)
|
|
|
![]() |
![]() |