![]() |
|
![]() |
|
![]() |
![]() |
|
#1
|
|||
|
|||
![]() Chương 12 Như chương dẫn đầu đă nói, trước đời Hàn Thuyên, quốc văn ở nước ta chỉ có tục ngữ ca dao, nghĩa là loại văn b́nh dân truyền khẩu. Ông là người đầu tiên biết làm thơ phú bằng quốc âm, nên ông có thể coi là ông tổ văn nôm, loại văn bác học có theo qui tắc cũ nhất định. Vậy ta phải xét về việc ộng đă khởi xướng lên và các nhà đă mô phỏng ông mà làm các tác phẩm bằng tiếng Nam. Hàn Thuyên A) Tiểu truyên.- Ông vốn họ Nguyễn, người huyện Thanh lâm (nay là Phủ Nam sách, tỉnh Hải dương) đậu thái học sinh về đời vua Trần Thái Tôn (1225-1257) Theo lời Sử chép (Cm.9,7 tr.26a), ông đương làm h́nh bộ thương thư, có con ngạc ngư (cá sấu) đến sông Phú lương (tức sông Nhị Hà) Vua sai ông làm bài văn vất xuống sông. Cá sấu tự đi. Vua cho việc ấy giống việc Hàn Dũ bên tàu (1) nên cho ông đổi họ Hàn. Về bài văn ném xuống sông để đuổi cá sấu này, sử không chép rơ là viết theo thể văn nào và làm bằng Hán văn hay Việt văn; vậy ta cũng không nên vội cho – như ư kiến thông thường rằng bài ấy là một bài văn tế và viết bằng tiếng nôm. Chỉ khi nào t́m thấy nguyên bài văn ấy mới giải quyết được vấn đề ấy, mà hiện nay th́ bài ấy không thấy chép ở sách nào cả. B) Hàn luật.- Nhân việc đuổi cá sấu kể trên, Sử chép thêm rằng: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc ngữ; người đời ấy nhiều người bắt chước. Đời sau, thơ quốc âm gọi là Hàn luật là v́ thế. Ta phải nhận rằng Hàn luật không phải do ông sáng tác ra; đó chỉ là Đường luật (luật thơ phú của nhà Đường bên Tàu, sẽ nói rơ ở chương sau) mà ông đă biết ứng dụng vào việc làm thơ phú quốc âm thôi. Tuy vậy công ông không phải là nhỏ. V́ có ông biết theo Đường luật làm thơ phú nôm th́ về sau mới có người bắt chước mà nền văn nôm ở nước ta mới thành lập từ đấy. C) Tác phẩm—Theo sách H.ch (mục Văn tịch chí) q.34 th́ ông có làm Phi sa tập (phi sa: phân cát ra; do câu Phi sa giản kim, bới cát chọn vàng) trong có nhiều bài thơ bằng quốc âm; tiếc rằng tập ấy nay đă mất. Các nhà mô phỏng Hàn Thuyên - Việc ông làm gây thành một cái phong trào; đời bấy giờ chắc có nhiều người theo gương ông mà làm thơ văn bằng quốc âm, tiếc rằng sử sách không ghi chép tường tận. Hiện nay, chỉ c̣n truyền lại mấy nhà sau này: 1/ Nguyễn sĩ Cố. – Theo sử chép (Cm., q 8 tr.44a) , ông có tài làm thơ quốc âm và khéo khôi hài, người đương thời ví ông với Đông Phương Sóc (2). 2/ Chu An (+1370)(3) – Theo Hch. (q.43) th́ ông có làm Quốc ngữ thi tập. -- (1) ông làm nội thị học sĩ đời vùa Trần Thánh tôn (1258-1278) và thiên chương học sĩ đời vua Trần Anh tôn (1293-1313) coi việc giảng Ngũ kinh. (2) Đông Phương Sóc: người nhà Hán bên Tàu, khéo khôi hài, hoạt kê. Làm quan đời Hán Vũ Đế, thường đem tài trào phúng chữa lỗi cho vua. (3) Chu An: Một bậc danh nho đời Nhà Trần, hiệu Tiều Ẩn người xă Quang liệt, huyện Thanh đàm (nay là xă Thanh liệt, huyện Thanh tri, Hà động). Đời vưa Trần Minh tôn (1314-1340) ông làm Quốc tử giám tu nghiệp và coi việc giảng kinh cho Thái tử; ông bèn soạn sách Tứ thứ thuyết ước. Đến đời Dụ tôn (1341-1368), ông dâng sớ xin chém bảy người nịnh thần (Thất trảm sớ) vua không nghe, -- C) Hồ Qui Ly là người tiếm ngôi nhà Trần làm vua năm 1400 cũng hay làm thơ nôm. Theo sử chép (Cm.q.11tr.3b), năm 1387 đời Trần Đế Nghiên, Thượng hoàng (tức là Nghệ Tôn) cho Quư Ly một thanh gươm trên có đề : “Văn vơ toàn tài, quân thần đồng đức. Ông làm thơ quốc ngữ để tạ ơn. Đến năm 1437, vua Lê Thái tôn muốn xem thủ chiếu và thơ văn của họ Hồ. Nguyễn Trăi thu thập lục ra, được mấy chục thiên thơ văn quốc ngữ dâng lên ngài xem (Tth,. Q.11.tr.38a) . Xem thế th́ biết họ Hồ từng làm nhiều thơ văn bằng quốc âm. Kết luận,- Hàn Thuyên bắt đầu làm thơ phú quốc âm, thực đă mở đường cho các nhà viết văn nôm của nước ta sau này. Tiếc rằng tác phẩm của ông cùng mấy nhà kể trên đều không truyền lại đến nay nữa, nên ta không được biết văn nôm buổi phôi thai thế nào. Các tác phẩm để kê cứu. 1. R.A. Nos 49,53. 2. Chap.bibl,. 26,28. 3. Sources. Nos 32,20. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (19-03-11)
|
#2
|
|||
|
|||
![]() Chương 13 Từ khi Hàn Thuyên biết theo Đường luật của Tàu mà làm thơ phú nôm th́ văn quốc âm một ngày một phát đạt. Các văn sĩ không những làm thơ phú mà c̣n làm các thể văn khác nữa. Vậy ta phải xét phép tắc các thể văn ấy. I. Các thể văn của Tàu và của ta. Thể văn mượn của Tàu và thể văn riêng của ta – Ta có thể chia các thể văn của ta ra làm hai loại: một là những thể văn mượn của Tàu; hai là những thể văn riêng của ta. A) Những thể mượn của Tàu có thể chia làm hai hạng: 1) Vận văn là văn có vần: thơ, phú. 2) Biền văn là văn không có vần mà có đối: câu đối tứ lục, kinh nghĩa (lối bát cổ) B) Những thể riêng của ta là : Lục bát, song thất, và các biêế thể của hai lối ấy (hát nói, sẩm, lư, hề, điên, v.v. ) nói lối (về tuồng) đều thuộc về loại văn vần cả. C̣n các lối văn xuôi của Tàu (như tự, bạt, truyện, kư, bí, luận) th́ các cụ hồi xưa ít viết bằng quốc âm. C̣n các lối văn xuôi mới (như tiểu thuyết, luận thuyết, kư sự, diễn thuyết, kịch) th́ măi gần đây ta chịu ảnh hưởng của Tây học mới biết dùng đến . Lời chú.- Một điều khiến ta phân biệt được thể văn nào là mượn của Tàu và thể văn nào là riêng của ta là cách gieo vần. a) Những thể văn vần của Tàu th́ bao giờ vần cũng gieo ở cuối câu. Thí dụ: trong thể thơ, các chữ vần gieo ở cuối câu thứ nhất và cuối câu chẳn. b) Những thể văn của ta th́ vần vừa gieo ở câu cuối gọi là cước vận (cước; chân), vừa gieo ở lưng chừng câu gọi là yêu vận (yêu: lưng). Hí dụ: trong lối lục bát th́ vần câu lục gieo ở cuối (cước vận lại hiệp với chữ thứ sáu của câu bát (yêu vận). Trong thể song thất th́ vần câu thất trên gieo ở cuối (cước vận) lại hiệp với chữ thứ năm câu thất dưới (yêu vận) Ta sẽ lần lượt xét phép tắc các thể văn mượn của Tàu, rồi đến các thể văn riêng của ta. 2.- Thơ Đường luật. Thi pháp của Tàu và âm luật của ta.- Như trên đă nói, thơ nôm ta làm theo phép tắc thơ Tàu, mà âm thanh tiếng ta cũng tương tự tiếng Tàu (cũng là thứ tiếng đan âm và cũng chia làm tiếng bằng tiếng trắc). nên thi pháp của ta tức là thi pháp của Tàu và các niêm luật của thơ ta cũng phỏng theo thơ Tàu cả . Thơ ngũ ngôn và thơ thất ngôn.- Thơ (chữ nho là thi) là thể văn, có thanh, có vận, có thể ngâm vịnh được. Theo số chữ trong câu, thơ cổ có hai lối chính: 1) Ngũ ngôn, mỗi câu năm chữ; 2) Thất ngôn, mỗi cây 7 chữ; Thơ cổ phong và thơ Đường luật.- Theo cách làm, thơ chia làm hai thể; 1) Cổ phong là thể thơ có trước đời nhà Đường, không theo niêm luật nhất định. 2) Đường luật hoặc cận thể là thể thơ đặt ra từ đời nhà Đường (618-907) phải theo niêm luật nhất định. Thơ Tứ tuyệt và thơ bát cú.- Theo số câu, thơ Đường luật chia làm hai lối: 1) Tứ tuyệt, mỗi bài bốn câu. 2) Bát cú, mỗi bài tám câu. Lối Đường luật bát cú là lối chính và thông dụng nhất, vậy ta hăy xét phép tắc lối ấy trước. I. Bát Cú : Trong lối thơ Đường luật, có năm điều này phải xét 1) Vần; 2) Đối; 3) Luật; 4) Niêm; 5) Cách bố cục. Vần thơ.- A) Định nghĩa .- Vần (chữ nho là vận là những tiếng thanh âm ḥa hiệp đặt vào hai hoặc nhiều câu văn để hướng ứng nhau). B) Cách gieo vần:- 1/ Thơ Đường luật thường dùng vần bằng; gián hoặc mới dùng vần trắc. 2/ Suốt bài thơ Đường luật chỉ hiệp theo một vần, tức là theo lối độc vận. 3/ Trong một bài bát cú có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và cối các câu chẵn. C) Lạc vận và cưỡng áp.- Gieo vần sai hẳn, không hiệp nhau gọi là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng không được hiệp lắm th́ gọi là cưỡng áp (đặt ngượng) , đều không được cả. Phép đối trong thể thơ.- A) Định nghĩa.- Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ư và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau. 1/ Đối ư là t́m hai ư tưởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau. 2/ Đối chữ th́ vừa phải đối thanh tức là bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; vừa phải đối loại của chữ nghĩa là phải đặt hai chữ cùng một tự loại để đối với nhau (như cùng là hai chữ danh từ, hoặc động từ , v.v. ) 3/ Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú. - Trừ hai câu đầu và hai câu cuối, c̣n bốn câu giữa th́ câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6. Luật thơ.- định nghĩa: Luật thơ là cách xếp đặt tiếng bằng tiếng trắc trong các câu của một bài thơ. B) Tiếng bằng và tiếng trắc. – Muốn hiểu luật thơ, phải biết phân biệt tiếng bằng tiếng trắc. Bằng (chữ nho là b́nh) là những tiếng lúc phát ra bằng phẳng đều đều. Trắc (nghĩa đen là nghiêng, lệch) là những tiếng khi phát ra hoặc tự thấp lên cau hoặc tự cao xuống thấp. Trong tiếng ta có tám thanh th́ có hai thanh bằng và sáu thanh trắc. Các thanh ấy liệt kê trong các biểu sau này: Loại thanh - Tên các thanh - Dấu chỉ thanh - Chua thêm Bằng - Phù b́nh thanh - Không có dấu Trầm b́nh thanh - Huyền - (`) Trắc Phù thượng thanh - Ngă - (~) Trầm thượng thanh - Hỏi - (? ) Riêng cho các tiếng đằng sau Phụ âm e, ch, p,t Phù khứ thanh - Nặng - (.) Phù nhập thanh - Sắc - ( ’ ) Trầm nhập thanh - Nặng - (.) C) Luật bằng và luật trắc.- Thơ có thể làm theo hai luật. 1) Luật bằng là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng; 2) luật trắc là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng trắc. D) Các luật thơ.- Nay liệt kê các luật thơ thông dụng như sau (b= tiếng bằng; t = tiếng trắc; v - tiếng vần; - những chữ in lối nghiêng là phải theo đúng luật; những chữ in thường th́ theo đúng luật hoặc không theo đúng luật cũng được, theo các cái lệ “bất luận” sẽ nói sau) : I. Luật bằng - II. Luật trắc A. Vần bằng A. Vần bằng. 1) Ngũ ngôn bát cú 2) Ngũ ngôn bát cú ![]() E) Bất luận và khổ độc .- V́ sự theo đúng luật bằng trắc như trên đă định là một việc rất khó, nên có lệ bất luận (không kể), nghĩa là trong câu thơ có một vài chữ không cần phải đúng luật. 1/ Trong bài thơ ngũ ngôn th́ chữ thứ nhất và chữ thứ ba không cần đúng luật: tức là nhất, tam bất luận. 2/ Trong bài thơ thất ngôn th́ chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không cần đúng luật: tức là nhất, tam , ngũ bất luận. Tùy theo lệ bất luận có thể thay đổi luật mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng trắc mà đổi ra bằng th́ bao giờ cũng được, chứ đáng bằng mà đổi ra trắc th́ trong vài trường hợp, sự thay đổi làm cho câu thơ thành ra khổ độc (khó đọc) không được. Những trường hợp ấy là: 1) Trong bài thơ ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẵn và chữ thứ ba của cả các câu đáng bằng mà đổi ra trắc là khổ độc. 2) Trong bài thơ thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẽ đáng bằng mà đổi ra trắc là khổ độc. F) Thất luật.- Một câu thơ đặt sai luật nghĩa là một chữ đáng bằng mà đổi ra trắc hoặc trái lại, thế th́ gọi là thất luật (sai mất luật) không được. Niêm.- A) Định nghĩa – Niêm (nghĩa đen là dính) là sự liên lạc về âm luật củ hai câu thơ trong bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nh́ của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. B) Những câu niêm với nhau trong một bài thơ bát cú. Trong một bài thơ bát cú (xem lại biểu các luật thơ ở trên) những câu sau này niêm với nhau: 1 với 8; 2 với 3; 4 với 5; 6 bới 7; 8 với 1. C) Thất niêm.- Khi các câu trong một bài thơ, v́ sự đặt sai, không niêm với nhau theo lệ đă định; th́ gọi là thất niêm (mất sự dính liền) không được. Cách bố cục.- Một bài thơ bát cú có bốn phần: 1) Đề gồm có phá đề (câu 1) là mở bài và thừa đề (cầu) là nối câu phá mà vào bài. 2) Thực hoặc trạng (hai câu 3-4) là giải thích đầu bài cho rơ ràng. 3) Luận (hai câu 5 -6) là bàn bạc cho rộng nghĩa đầu bài. 4) Kết (hai câu 7-8) là tóm ư nghĩa cả bài mà thắt lại. II.- Tứ Tuyệt. Định nghĩa.- tứ là bốn, tuyệt là dứt, ngắt. Lối này gọi thế v́ thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành. Các cách làm thơ tứ tuyệt.- V́ một bài thơ bát cú có thể ngắt nhiều cách, nên cũng có nhiều cách làm thơ tứ tuyệt: 1/ Ngắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau. Thí dụ. Con voi (Lê Thánh Tôn ?) (so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên) Xông pha bốn cơi bể chông gai, Vùng vẫy mười phương bụi cát bay. Phép nước gọi là tơ chỉ buộc, (3) Sức này nào quản búa ŕu tay.(4) ( 3) và (4) đối nhau. 2/ Ngắt 4 câu giữa, thành ra bài thơ 2 vần, cả bốn câu đối nhau Thí dụ: Khóm gừng tỏi (Ôn Như Hầu) (so sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên) Lởm chởm vài hàng tỏi (1) Lơ thơ mấy khóm gừng (2) Vẻ chi là cảnh mọn, (3) Mà cũng đến tang thương (4) (1) và (2) đối nhau, (3) và (4) đối nhau . 3/ Ngắt 4 câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dưới không đối. Thí dụ: Để chùa Vô vi (Vô danh) (so sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng ở trên) Vắt vẻo sườn non Trạo (1) Lơ thơ mấy ngọn chùa. (2) Hỏi ai là chủ đó? Có bán tớ xin mua (1) và (2) đối nhau. 4/ Ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, thàn hra bài thơ 3 vần, cả 4 câu không đối. Thí dụ: Cái pháo (Nguyễn Hữu Chỉnh) (so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên) Xác không, vốn những cậy tay người, Bao nả công tŕnh, tạch cái thôi! Kêu lắm, lại càng tan tác lắm. Thế nào cũng một tiếng mà thôi. 5/ Ngắt hai câu 1-2 với hai câu 5-6 , thàn hra bài thơ 3 vần hai câu cuối đối nhau. Thí dụ: Con cóc (Lê Thánh Tôn) (So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng ở trên) Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi, Chốn nghiêm thăm thẳm một ḿnh ngồi Tép miệng năm ba con kiến gió (3) Nghiến răng chuyện động bốn phương trời (4) (3) và (4) đối nhau. 3. Thơ cổ phong Số chữ và số câu trong lối thơ cổ phong. - Lối này chỉ có sổ chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn, hoặc thất ngôn): ngoài ra, không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối đường luật, nghĩa là không có niêm, luật, không phải đối (một đôi khi có đối là tùy nhà làm thơ, chứ không bắt buộc. Lối này cũng không hạn số câu: cứ tự 4 câu trở lên, muốn làm dài ngắn bao nhiêu cũng được. Các thi gia thường cũng hay làm mỗi băi câu (tứ tuyệt) hoặc 8 câu (bát cú). Nhưng cũng có bài làm 6 câu hoắc 12 câu. Nhưng bài thất ngôn dài quá 8 câu và ngủ ngôn dài quá 16 câu gọi là tràng thiên (thiên dài). Cách gieo vần trong lối thơ cổ phong. - Lối thơ cô phong có thể cả bài dùng một vần (độc vận), hoặc dùng nhiều vần (liên vận). Khi dùng liên vận th́ hoặc mỗi hai câu mỗi đổi vần (lối này phải dùng vần liên châu mỗi cuối câu mỗi hạ vần), hoặc bốn câu đổi dùng một vần (như lối thơ tứ tuyệt), hoặc tám câu đổi dùng một vần (như lối thơ bát cú). Mỗi khi đổi vần, câu thứ nhất hoặc có gieo vần, hoặc không gieo vần cũng được. Trong bài thơ liên vận , có thể dùng vừa vần bằng, vừa vần trắc. Những bài thơ cổ phong làm mẫu: (Ngũ ngôn bát cú) Khen Trần B́nh Trọng Giỏi thay Trần B́nh Trọng! Ḍng dỏi Lê Đại Hành Đánh giặc dư tài mạnh Thờ vua một tiết trung. Bắc vương sống mà nhục, Nam quỉ thác cũng vinh Cứng cỏi ḷng trung nghĩa Ngàn thu tỏ đại đanh Phan Kế Bính Thất ngôn bát cú Dế duỗi bên đèn Kiến chẳng phải kiến, voi chẳng voi, Trời sinh dế duổi cũng choi choi Ngắn cánh lên trời bay chẳng thấu, Co tay vạch đất cũng khoe tài. Mưa sa nước chảy lên cao ở Lửa đỏ dầu sổi nhảy tới chơi Quân tử có thương xin chớ phụ Lăm lăm bay nhảy để mà coi Tú Qùi Ngũ ngôn tràng thiên (liên vận) Bài ghi trên chỗ ngồi Người xấu chơ nên nói, Ḿnh hay chớ nên khen Làm ân chớ nên nhớ chịu ân chớ nên quên đời khen không đủ mến, Duy lấy nhân làm nền Chúa bụng rồi mới động, Gièm pha có ngại ǵ đừng để danh quá thực, Thánh ở trong ngu si, Giữ ḿnh cốt trong trẻo, Ánh sáng lộ tỷ ty. Mềm mỏng được bền dai, Lăo Đam khoẻ mới kỳ Hầm hầm nết kẻ hèn, Khoan ḥa người lượng cả. Nói cẩn, ăn có chừng Biết vừa, không tai vạ. Cứ thế được măi măi, Thơ tho cũng thoả dạ. Thôi Tử Ngọc – Phan Kế Bính dịch nôm Việt Hán văn khảo (Éditions du Trung Bắc tân văn) Thất ngôn tràng thiên (liên vận) Ông Lă Gia Ngồi buồn xem lại sử Nam nhà Quan đời vua Triệu ông Lă Gia Ngôi cao quyền trọng đầu râu bạc, Hai vai gánh vác một san hà, Giặc ngoài ngắm nghe, vua Hưng nhỏ, Nước đổ, thành nghiêng, một cụ gia. Cù Hậu, sứ thần trong nửa tiệc, Quét sạch hội tanh, tan nát hoa. Con trưởng vua Minh dựng nối ḍng, Hai ngh́n vào cơi tính đă xong Gói cờ tiết Hán để mặt ải, Bao nơi hiểm yếu dàn canh pḥng Năm ngh́n lại tiếp quân Tàu sang, Chín chục chết theo cơ nghiệp Triệu Chưa chắc loạn thần hay trung trinh Văng vẳng ngh́n thu không kẻ hiểu Nguyễn Khắc HIếu Khối t́nh con (Quyển thứ nhất – Đông kinh ấn quán, Hà Nội) 4. Các lối thơ riêng Trừ hai lối Đường luật và cổ phong vừa kể trên là những lối thông dụng nhất, c̣n có mấy lối thơ riêng một đôi khi th́ gia cũng dùng đến. Trong các lối liệt kê sau đây th́ 5 lối trên là bắt chước của Tàu, e lối sau riêng của ta có; c̣n hai thể dưới, hoạ vận là liên ngâm, thực ra không phải là lối riêng, chỉ là một cách làm thơ để vui chơi cho các thi gia Tàu và ta. Thủ vĩ ngâm.- Thủ vĩ ngâm (thủ: đầu; vĩ: đuôi; ngâm: đọc) là lối thơ câu đầu câu cuối giống nhau. Thí dụ: Tết Anh em đừng nghĩ Tết tôi ngheo, Tiền bạc trong kho chửa lănh tiêu. Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quảy; Trà sen mượn hỏi, già c̣n kiêu. Bánh đường sắp gói, e mồm chảy; Gị lụa toan làm, sợ nắng thiu. Thôi thế th́ thôi, đành Tết khác, Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo. Trần Tế Xương. Liên hoàn.- Liên hoàn (liên : liền; hoàn: ṿng) là lối thơ có nhiều bài mà cứ câu cuối bài trên lấy làm câu đầu bài dưới . Thí dụ: Hủ nho tự trào (bốn bài) I Ngán nỗi nhà nho bọn hủ ta, Hủ sao hủ gớm hủ ghê mà ! Thơ suông nước ốc c̣n ngấm váng; Rượu bự non chai vẫn chén khà. Múa mép rơ ra văn chú chiệc; Dài lựng quen những thói con nhà. Phen này cái hủ xua đi hết. Cứ để cười nhau hủ măi a? II Cứ để cười nhau hủ măi a ? Cười ta, ta cũng biết rằng ta. Trót quen nho nhă đầu khăn lượt. Hóa kém văn minh cổ áo là. Khó vậy làm em, giàu đă chị; No th́ nên bụt, đói ra ma, Nay được buổi học ganh đua mới. C̣n giữ lề xưa măi thế là! III C̣n giữ lề xưa măi thế là ! Trông gương ta lại tức cho ta. Ngâm câu dă giả, đùi rung nẩy, Ngó chữ a b, mắt quáng ḷa, Tai mặt cùng vui đ́nh đám hội; Mày râu riêng thẹn nước non nhà. Ai ơi! giấc ngủ sao mê qua! Mưa gió năm châu rộn tiếng gà. IV Mưa gió năm châu rộn tiếng gà, Cái hồn văn tử tỉnh dần ra, Trống khua giáo dục kêu vang nước; Đuốc rọi văn minh sáng rực nhà. Khai hóa đă đành thay lối cũ; Cải lương c̣n phải tính đường xa. Anh xem nghĩ lại sao không cố, Ngán nỗi nhà nhỏ bọn hủ ta. T́nh si Tử. Thuận nghịch độc.- Thuận nghịch độc (thuận: xuôi; nghịch: ngược) là lối thơ đọc xuôi đọc ngược cũng thành câu có nghĩa cả; co khi đọc xuôi thành thơ quốc âm mà đọc ngược thành thơ chữ Hán. Đền Ngọc Sơn (Hà Nội) (Bài đọc xuôi) Linh uy tiếng nổi thật là đây: Nước chắn, hoa rào, một khoá mây. Xanh biếc nước soi, hồ lộn bóng: Tim bầm rêu mọc, đá tṛn xoay. Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng; Khách văng khi đưa xạ ngát bay. Thành thị tiếng vang đồn cảnh thắng: Rành rành nọ bút với nghiên này. (Bài đọc ngược) Này nghiên với bút nọ rành rành: Thắng cảnh đồn vang thiếng thị thành Bay ngát xa đưa khi vắng khách; Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh . Xoay tṛn đá mọc rêu bầm tím, Bóng lộn hồ soi nước biếc xanh. Mây khóa một rào hoa chắn nước, Đây là thật nổi tiếng uy linh Vô danh Yết hậu.- Yết hậu (yết: nghỉ; hậu; sau) là lối thơ có bốn câu trên đủ chữ, c̣n bốn câu dưới chỉ có một chữ. Thí dụ: Lươn cứ nghĩ rằng ḿnh ngắn, ai ngờ cũng dài đườn. Thế mà c̣n chê trạch: Lươn! Vô danh Lục ngôn thể .- Lục ngôn thể là lối thơ thất ngôn xen vào cái câu chỉ có 6 chữ. Lối thơ này ở nước ta về đời Trần, Lê hay dùng. Thí dụ : Cảnh nhàn Lọ là thành thị, lọ lâm toàn, Được thứ th́ hơn miễn phận nhàn. Vụng, bất tài nên kém bạn (lục ngôn thể) Già, vô sự ấy là tiên (lục ngôn thể) Đồ thư một quyển nhà làm của; Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền. Dù nhẫn chên khen, dù miệng thế, Cơ mầu tạo hóa mặc tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tiệt hạ.- Tiệt hạ (tiệt: ngắt, hạ: dưới) là lối thơ nào cũng bỏ lửng như bị ngắt, bớt ở cuối, nhưng ư nghĩa rơ rệt, người đọc đoán mà hiểu được. Thí dụ: Thác bức rèm châu chợt thấy mà …! Chẳng hay người ngọc có hay đà …! Nét thu dợn sóng h́nh như thể … Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là … Khuôn khổ ra chiều người ở chốn .. Nết na xem phải thói con nhà .. Dở dang nhắn gửi xin thời hăy … T́nh ngắn t́nh dài chút nữa ta … Vô danh Vĩ tam thanh- Vĩ tham thanh (vĩ: đuôi; tam: ba, thanh: tiếng ) là lối thơ ba tiếng cuối cùng, câu nào cũng phát âm giống nhau. Thí dụ: Ta nghe gà gáy tẻ tè te, Bóng ác vừa lên hé hẻ hè. Non một chồng cao von vót vót, Hoa năm sắc nở loẻ loè loe. Chim t́nh bầu bạn kia ḱa kỉa, Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhè. Danh lợi mặt người ti tí tỉ Ngủ trưa chưa dậy khoẻ khoè khoe Vô danh. Song điệp.- Song điệp (song: đôi; điệp: trùng nhau) là lối thơ mỗi câu hoặc ở đâu hoặc ở cuối có đặt hai cặp điệp tự (chữ lắp lại) Thí dụ: Vất vất vơ vơ cũng nực cười! Căm căm cúi cúi có hơn ai? Nay c̣n chị chị anh anh đó, Mai đă ông ông mụ mụ rồi. Có có không không, lo hết kiếp Khôn khôn, dại dại chết xong đời. Chi bằng láo láo lơ lơ vậy, Ngủ ngủ, ăn ăn, nói chuyện chơi Vô danh Hoạ vận.- Hoạ vận (họa: ḥa theo; vận: vần) là bài thơ gieo đúng các chữ vần của bài trước tức là bài xướng (hát lên) để đáp lại ư nghĩa bài trước, hoặc biểu đồng t́nh hoặc phản đối lại. Thí dụ: Tôn phu nhân qui Thục Bài xướng Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ ṭng; Ngân thu rạng tiết gái Giang đông. Ĺa Ngô bịn rịn cḥm mấy bạc; Về hán trau tria mảnh má hồng. Son phấn thà cam dày gió bụi; Đá vàn chi để thẹn non sông. Ai về nhắn với Châu Công Cẩn; Thà mất ḷng anh được bụng chồng. Tôn Thọ Tường. Bài họa Cài trâm xóc áo vẹn câu ṭng Mặt ngả trời chiều biệt cơi Đông. Ngút tỏa trời Ngô un sắc trắng; Duyên về đất Thục đượm màu hồng. Hai vai tơ tóc bền trời đất; Một gánh cương thường nặng núi sống. Anh hởi ! Tồn Quyền ! anh có biết? Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng. Phan văn Trị. Liên ngâm hoặc liên cú.- Liên ngâm hoặc liên cú (liên: liền, ngâm: đọc; cú: câu) là một bài thơ do nhiều người cùng làm, cứ lần lượt mỗi người đọc một hai câu cho liên tiếp thành bài. Thí dụ: Cảnh hồ Tây (Bài này do bà Liễu Hạnh cùng với ông PHùng Khắc Khoan, một ông họ Lư, một ông họ Ngô đi chơi thuyền ở Hồ Tây liên ngâm mà thành) Liễu: Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời. Lư: Bát ngát tứ mùa rộng mắt coi. Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh. Phùng: Trâu vàng biêng biếc nước vàng khơi, Che mưa nhà lợp vài gian cỏ. Ngô: chèo gió ai bơi một chiếc chài Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng, Lư: Trời hôm bếp thổi khói tuôn hơi. Mơn mơn tay lái con chéo quê, Phùng: Xàn xạt ḿnh đeo chiếc áo tơi. Thuyền Phạm phất phơ chơi bể rộng. Ngô: Bè Trương thấp thoáng thả sông trời Đ̣ đưa băi lác tai ḍn dă, Lư: Giọng hát bờ lau tiếng thảnh thơi C̣ xuống đua qua vùng cát đâu Phùng: Diều bay sẽ liệng đám mây chơi. Khúc ca trong đục ầm bên nước, Ngô: Quầng mắt xanh đen sạch bụi đời Đầu gối long hà lai láng chuyện. Lư: Tay soi tiền giáp lả lơi cười. Chốc sen ngả nón chứa rau búp, Phùng: Đáy nước d́m phao bắt cá tươi Có lúc kê hoa bày tiệc rượu Ngô: Hoạ khi tựa bóng đứng đầu mui. Say rồi, cởi áo quăng ḍng mát. Lư: Tắm đoạn, xoay quần hóng gió phơi. Trẻ mục yên hoa bày tiệc rượu. Phùng: Lũ tiều Thượng uyển hẹn lời dai. Bắt c̣ cứ vũng ngồi ŕnh bụi. Ngô: Ṃ ngọc khen ai khéo lặn ng̣i Tay lưới thế thần khôn mắc vướng. Lư; Lưỡi câu danh lợi nhẹ tham mồi, Hạ rồi bến mát c̣n yêu nắng. Phùng; Đông hết thành xuân chửa thấy mai. Thú cảnh yên hà sang dễ đọ. Ngô: Sóng ḷng trần tục dạ đầy vơi. Xe săn vị thủy thu hồ hỏi, Lư: Thuyền tới Đào Nguyên mặc sức bơi. Chuông sớm giục thanh ḷng phật đó. Liễu: Trăng tṛn soi một bóng tiên thôi. (Nguyên văn chữ nho Truyện Liễu chúa Phan Kế Bính dịch nôm trong Việt Hán văn khảo) Các tác phẩm để kê cứu 1) Phan Kế Bính, Việt Hán văn khảo (sách đă kể trước) 2) Ưu thiên Bùi Kỷ, Quốc văn cụ thể (sách đă kể trước) 3) Đông châu, Cổ xuư nguyên âm. Lối văn thơ nôm. Cuốn thứ nhất. Đông kinh ấn quán. Hà Nội. 4) Ôn Như Nguyễn văn Ngọc, Nam thi hợp tuyển. Quyển nhất; Vĩnh hưng long thư quán. Hà nội. 5) Huyên mặc đạo nhân Dương Mạnh Huy, Đường thi hợp tuyển. cuốn thứ nhất (có dạy luật phép làm thơ). Liễu viên thư xă. Saigon. 6) Chương dân thi thoại. Nhà in Đắc lập, Huế. 7) Phạm Quỳnh, Văn học b́nh luận. Bàn về thơ nôm. N.P.t.1, số 5 tr.293-297. |
The Following User Says Thank You to phale For This Useful Post: | ||
hoatigon208410 (19-03-11)
|
![]() |
|
|
![]() |
![]() |