|
#1
|
|||
|
|||
Các bài Phú hay
Phú (chữ Nho:賦) là một thể văn chương cổ của Việt Nam, xuất phát từ Trung Hoa. Đây là một thể văn vần có từ thời nhà Hán nhưng thể phú thông dụng nhất tại Việt Nam là loại đặt ra từ đời nhà Đường, nên c̣n gọi là Đường phú. Những thể khác ít dùng là:
phú tứ tự: phú bốn chữ, dùng câu chỉ có bốn chữ phú thất tự: phú bảy chữ, dùng câu chỉ có bảy chữ phú Sở từ: câu phú có năm, sáu chữ; cuối câu th́ đệm chữ "hề" phú lưu thủy: phú không hạn chế số chữ, gần như văn xuôi. Phú theo nghĩa đen chủ yếu là thể văn tả cảnh. Nhưng từ cái ư chính tả ngoại cảnh, một bài phú thường liên kết với nội tâm để tả t́nh. Thể thức Bài phú có hai yếu tố chính là có vần và có đối. Một câu chia làm hai vế phải đối nhau. Chữ cuối câu, tức cuối vế thứ nh́ th́ gieo vần. Ví dụ như trong bài "Phú hỏng thi" của Trần Kế Xương: Quyển đệ tam viết đă xong rồi bảng đệ tứ chưa ra c̣n ngóng Thầy chắc hẳn văn chương có mực, lễ thánh xem gị cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng Cách sắp xếp bài phú có năm đoạn, có tên là: lung: mở đầu bài biện nguyên: t́m lại cái gốc của đề tài thích thực: tả ư nghĩa phu diễn: tán rộng ư nghị luận: tổng kết. Luật vần Đường phú có thể áp dụng một trong ba luật vần: độc vận: dùng chỉ một vần, gieo từ đầu đến cuối bài cho mọi câu của cả năm đoạn: lung, biện nguyên, thích thực, phu diễn và nghị luận. hạn vận: mỗi đoạn của bài phú dùng một vần riêng. Như đoạn lung th́ mọi câu gieo cùng vần, sang đoạn biện nguyên th́ mọi câu lại gieo vần khác... phóng vận: vần có thể thay đổi, không cần ăn khớp với mỗi đoạn của bài phú. Phép đặt câu Số câu trong bài phú không nhất định, muốn đặt bao nhiêu cũng được. Câu đầu mỗi đoạn thường dùng câu bốn chữ, gọi là tứ tự. Nếu xếp mấy câu bốn chữ liền nhau th́ có thể gieo cùng một vần, gọi là vần liên châu. Sau câu tứ tự th́ đến thân đoạn. Số chữ mỗi câu có mấy loại, căn cứ trên cách ngắt câu. song quan: mỗi vế dưới 10 chữ, không ngắt cách cú: mỗi vế ngắt làm hai đoạn, một ngắn, một dài gối hạc hay hạc tất: mỗi vế ngắt làm ba đoạn. (Theo Wikipedia) |
|
|