Xem bài viết riêng lẻ
  #6  
Cũ 20-04-11, 03:25 PM
phale phale đang ẩn
CM Nhị Thập Nhị Nguyên
 
Tham gia ngày: Apr 2010
Bài gửi: 24.797
Thanks: 45.828
Thanked 83.810 Times in 21.712 Posts
Mặc định

31. CÀNG GIÀ CÀNG DẺO CÀNG DAI!

Trong thời gian trú tại Núi Nài, hát xướng, ngao du cùng bạn bè, khi tuổi đă ngoại thất tuần, Nguyễn Công Trứ gặp một cô gái mười bảy tuổi. Như có duyên trời định, hai người - một lăo già tóc bạc và một thiếu nữ má hồng - đă đem ḷng yêu nhau và gắn bó. Cụ Thượng Trứ hỏi nàng làm thiếp, và nàng đă đồng ư làm lễ cưới. Trong đêm hợp hôn, Cụ cùng nàng bày rượu, đập trống hát ca trù và sáng tác một bài hát nói ngay lập tức được truyền tụng khắp vùng: và cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, thuộc một đôi câu.

Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc,
Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau.
Ḱa kia người mái tuyết đă phau phau,
Run rẩy kẻ đào tơ c̣n mảnh khảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất toạ lê hoa áp hải đường…

Và có lẽ cho đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, không thuộc hai câu sau đây:

Tân nhân nhược vấn lang niên kỉ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!
(Nếu thiếp mới hỏi chàng bao tuổi,
Năm mươi năm trước hai mươi ba!)

Và Cụ kết thúc khúc hát bằng một tuyên bố… xanh rờn:

Xưa nay mấy kẻ đa t́nh,
Lăo Trần là một với ḿnh là hai.
Càng già càng dẻo càng dai!

32. NHỮNG Đ̉N TRỪNG PHẠT BẰNG CHỮ NGHĨA

Làm quan, Nguyễn Công Trứ được dân chúng cảm phục, quư mến nhưng cũng bị không ít kẻ ghen ghét, hăm hại, khiến cụ đă bao phen lên voi xuống chó. Nhưng là một văn nhân nhân văn, những ân oán đó cụ không trả bằng những mưu mô thảm độc, máu chảy đầu rơi, mà chỉ bằng trí tuệ sắc sảo, bằng lời nói thâm thuư đôi khi cay độc - những đ̣n trừng phạt bằng chữ nghĩa nhiều khi c̣n đau hơn hoạn, có khi c̣n hơn cả án tử h́nh!
Sau đây là một vài câu chuyện:

Với quan tỉnh Bắc Ninh

Tương truyền, một trong những người đă từng vu khống Nguyễn Công Trứ là quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm, và Nguyễn Công Trứ đă trừng phạt như sau:

Trong một bữa tiệc có quan Tổng đốc Bắc Ninh cùng dự, khi chén rượu đă ngà ngà, đáp lời mọi người mời mọc, thúc dục kể chuyện vui, cụ Trứ nói:

- Thư*&#a các quan, cách đây mấy năm, khi đương làm quan ở đất Bắc, nhân đi hành hạt tại huyện lị Nam Sách gặp một đứa bé con mới lên bảy tám tuổi mà thông minh linh lợi khác thường, tôi liền ra cho nó một vế đối Nôm: Lời vàng quan tỉnh Bắc Ninh. Không ngờ, chẳngcần phải nghĩ ngợi lâu, nó ứng khẩu*&# đối luôn: Cửa ngọc bà huyện Nam Sách. Chà,“Lời vàng” đối với “cửa ngọc”, “quan tỉnh” đối với “bà huyện”, “Bắc Ninh” đối với “Nam Sách” th́ c̣n chê làm sao được! Tôi liền thưởng cho nó một quan tiền.

Nghe chuyện, các quan đều pha ra cười, chỉ có quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm th́ đỏ mặt tía tai, cố ngồi nín thinh cho qua bữa tiệc.

Với Quan phủ Thạch Hà

Quan phủ Thạch Hà, Hà Tĩnh, cũng có mối ân oán chi đó với cụ Trứ nên có lần chịu đ̣n đau của cụ. Trong một bữa tiệc, khi các các quan đă ăn uống say sưa rồi, cụ Trứ kể chuyện:

- Ở phủ Thạch Hà đất Hà Tĩnh quê tôi có một đứa bé thần đồng. Nó ứng đối tài t́nh không thể tưởng. Một lần t́nh cờ gặp nó, tôi đọc mau một câu thật dài để thách nó đối, thế mà nó đối hay và nhanh hơn cả người lớn mới tài chứ. Câu tôi đọc là thế này:

- Chống chơi như quan phủ Thạch Hà. Thạch là đá, hà là sông, giữa ḍng sông ngăn đá.

Nó tiếp lời tôi mà đối ngay như sau :

- Giàu có như bà huyện Kim Động. Kim là vàng, động là hang, trong cửa hang có vàng(29).

Các quan khách trong tiệc ôm bụng cười nghiêng ngửa vô tư, chỉ riêng quan Tri phủ Thạch Hà th́ nửa cười nửa mếu lấm lét nh́n quanh.

Với Lang trung bộ Lễ

Trong một bữa tiệc khác, mũi dùi châm biếm của cụ chĩa vào một viên Lang trung cũng có mặt trong tiệc. Thoạt đầu, Cụ hỏi:

- Thưa các quan bác, các quan bác có biết “Lang trung” là gi không?

Đánh hơi thấy sắp được nghe một câu chuyện ǵ đó thú vị, cả bàn gần như đồng thanh hô:

- Thưa không ạ, Cụ kể đi ạ!

- Vâng, vậy th́ tôi xin kể chuyện “Ai ta hề Lang trung” để các quan bác biết nhé. Ấy là vào cái thời làm quan ở Bắc ḱ, tôi có biết một ông người Hoa khá giàu và có ba vợ, họ ở chung với nhau và thương yêu, chiều chuộng nhau như bát nước đầy. Chẳng may, ông chồng mang bệnh nặng không cứu chữa được. Khi đức lang quân vừa tắt thở, người vợ lớn liền nhào tới ôm lấy đầu chồng than khóc nức nở, lặp đi lặp lại “Ai ta hề lang thủ”, nghĩa là:“Ôi thương cái đầu của chàng!”

Người vợ thứ hai chạy lại ôm chặt lấy hai chân của chồng mà khóc thảm thiết: “Ai ta hề lang túc”, nghĩa là: “Ôi thương cặp chân của chàng!”

C̣n người vợ thứ ba thấy thế vội chen vào giữa hai chị, cầm lấy “cái ấy” của cố phu quân mà khóc than kể lể: “Ai ta hề lang trung! Ai ta hề lang trung!”, nghĩa là: “Ôi thương cái… của chàng!”. Đấy, “Lang trung” là thế…
Lời kể chưa dứt, đám tiệc đă trở nên nhốn nháo với những tiếng cười hô hố, ha há, hi hí… Duy chỉ có một người không cười nổi, mà cũng không biết làm sau giấu đi bộ mặt của ḿnh: đó là viên Lang trung bộ Lễ trước kia đă có hành động bất nhă với cụ Trứ.

33. “ÂN OÁN GIANG HỒ” VỚI TỈNH THẦN HÀ TĨNH

Tương truyền, có lần các quan tỉnh thần Hà Tĩnh mật tấu vu cáo Nguyễn Công Trứ lên vua Tự Đức, v́ thế cụ rất hận, thường t́m cách thừa dịp dạy cho các quan tỉnh Hà Tĩnh những bài học đích đáng. Sau đây là hai trong số nhiều câu chuyện được truyền tụng trong dân gian.

1. Mùa xuân năm Canh Tuất (1850), lúc đó Nguyễn Công Trứ về hưu dưỡng đă được gần nột năm, các quan tỉnh Hà Tĩnh tổ chức lễ cúng “Xuân thủ”, là lễ cúng đầu mùa xuân hàng năm. Tham dự lễ cúng, ngoài các quan viên tại chức, các hưu quan trong tỉnh cũng được mời, tất nhiên trong đó có cụ Thượng Trứ. Sau khi hành lễ là một bữa tiệc rượu khoản đăi các quan viên văn vơ tân cựu trong tỉnh.

Vào bàn tiệc, v́ có mặt cụ Trứ nên ai nấy có vẻ e dè, không dám phách lối khoe khoang như mọi khi, lỡ cụ châm chọc cho giữa công chúng th́ mất mặt. Thấy không khí trên tiệc buồn tẻ, Cụ Trứ mới lấy tư cách người cao niên mời quan khách nói chuyện tự nhiên. Nhưng các quan vẫn chẳng có ai dám nói trước. Quan Bố chánh chủ tiệc đành phải đứng lên thưa:
- Xin mời Cụ lớn Thượng thư*&# nói trước, chúng tôi hậu sinh, không dám thất lễ.
Cụ Trứ mỉm cười, và bắt đầu nói:
- Đa tạ các quan có nhă ư cho lăo nói trước, lăo xin kể hầu mọi người vài câu chuyện vui vậy. Mà chuyện cũng xảy ra cách đây hơn mười năm rồi…
Các quan hoan hỉ:
- Xin mời cụ, xin cụ cho nghe ạ.
Cụ Thương Trứ vuốt râu, mỉn cười, thong thả kể:
- Chả là hồi đó lăo c̣n làm Tổng đốc Hải Yên, một hôm đi đường gặp một đứa bé chừng mười tuổi mà trông lanh lợi vô cùng. Đoán nó là một học tṛ thông minh, lăo liền ra cho nó một câu đối: Ở Hà Tĩnh sông lặng nhờ gió lặng(30). Nó ứng khẩu đối ngay: Tại Hải Yên bể yên bởi sóng yên(31).
Lăo tiếp tục đọc: Quan tỉnh Hà Tĩnh mở miệng hay: lời lời châu ngọc. Nó đối liền: Bà tổng Hải Yên giấu của kín: hàng hàng gấm thêu(32).
Lăo lại ra một câu đối bằng tục ngữ: Ăn một đọi, nói một lời, đừng học thói tam tiên tam tổ. Nó cũng đối ngay bằng tục ngữ: Của ba loài, ngư*&#ời ba đấng, kể chi phường bát đảo bát điên(33).
Lăo phục nó lắm, đọc một câu ngạn ngữ khác: Ném đất giấu tay, ghê những kẻ mặt người dạ thú. Nó đối liền bằng một câu ngạn ngữ: Phun người ngậm máu, sá chi ph*&#ường miệng Phật ḷng xà(34).
Các quan trong tiệc ngồi nghe, có người xuưt xoa khen thằng bé giỏi, nhưng cũng có người tái mặt, cúi đầu.

2. Vào dịp tiết Trung Nguyên (rằm tháng bảy), quan Bố chính Hà Tĩnh truyền cho quan huyện Nghi xuân t́m thuê một chiếc thuyền rộng răi để đêm rằm các quan xuống Bến Thủy hóng mát, chơi tổ tôm và hát cô đầu. Chẳng may cụ Nguyễn Công Trứ biết được tin ấy, bèn đi t́m người lái thuyền đă nhận lời cho các quan thuê thuyền. Anh lái trả lời:

- Thưa cụ, con đă lỡ nhận lời ông lí trưởng mất rồi ạ.
- Không sao, lăo không cần thuê cả thuyền đâu. Lăo chỉ cần thuê cái mui thuyền đủ để ngồi hóng mát là được. Tôi sẽ trả cho anh một quan tiền.
Anh lái thuyền bằng ḷng. Trước khi đêm xuống, cụ Trứ mặc bộ áo quần vải thô nhuộm nâu như một ông lăo nhà quê bước xuống thuyền, trao cho anh lái một quan tiền rồi ra ngồi trước mui thuyền hóng mát. Lát sau, xe ngựa của các quan tỉnh, quan huyện lục tục kéo đến cùng đoàn đào kép hát cô đầu. Mọi người lần lư*&#ợt xuống thuyền, chèo chính giữa ḍng sông Lam thơ mộng thả neo và bắt đầu cuộc vui chơi, đánh bài, đần hát. Không ai để ư đến ông lăo nhà quê ngồi một ḿnh đầu mui thuyền. Được một lúc, cụ lân la bắt chuyện với anh chèo mui:
- Anh được mấy con rồi? Đă có cháu nào lớn chưa?
- Thưa cụ, con được ba cháu rồi ạ. Chúng nó đều c̣n nhỏ dại cả. Vợ cháu lại gần ngày sinh nữa.
- Vợ gần ngày sinh, th́ phải xa vợ nhá.
- Dạ. Nhưng đôi lúc v́ thương vợ, nên cũng phải gần ạ.
Ông lăo bất chợt cao giọng quát:
- Bậy! Vợ gần ngày sinh mà lại gần vợ th́ chẳng là thằng trong bú… thằng ngoài à!
Các quan trong thuyền đang say s*&#ưa chơi tổ tôm chợt nghe từ bên ngoài mui thuyền vẳng tới “thằng trong bú… thằng ngoài”, th́ đều dỏng tai nghe ngóng. Sinh nghi bởi câu nói khiếm nhă như vậy, quan đầu tỉnh ra hiệu cho quan huyện ra ngoài xem xét t́nh h́nh ra sao? Quan huyện bước ra, nh́n kĩ ông già đang ngồi quay lưng hóng mát trên mui, liền nín thinh trở vào tŕnh quan Bố chính: “Chính Cụ Thượng Trứ đă nói câu ấy, Cụ đang ngồi ở ngoài mui thuyền một ḿnh”.
Quan Bố chính nói nhỏ:
- Mặc Cụ, chúng ḿnh cứ tiếp tục chơi, làm như*&# không nghe ǵ, không biết Cụ ấy đang ngồi ngoài ấy.
Lát sau, ngoài mui Cụ Trứ lại cất giọng hỏi anh chèo:
- Sao anh không hát đi cho vui?
- Dạ, con không biết truyện hay nên không hát ạ.
- Anh có muốn nghe tôi đọc Kiều không?
- Dạ, thưa có.
Cu Trứ cất giọng ngâm nga văng vẳng: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Nghe giọng ngâm Kiều vọng vào, quan Bố chính thật sự chột dạ, liền ra lệnh cho thuyền cập bến, “để các quan về, kẻo đêm đă khuya, ngọn gió biển đă thổi mạnh”.
Trả lời với trích dẫn