Nguyệt Viên

Nguyệt Viên (http://nguyetvien.net/index.php)
-   Tiểu Thuyết (http://nguyetvien.net/forumdisplay.php?f=25)
-   -   Yêu thương những ǵ không giống ḿnh (http://nguyetvien.net/showthread.php?t=2324)

hoatigon208410 16-02-11 03:34 PM

Yêu thương những ǵ không giống ḿnh
 
Chuyện Con Mèo Dạy Hải Âu Bay
(Truyện thiếu nhi của Luis Sepúlveda, Phương Huyên dịch, Bút Ch́ minh hoạ – Nhă Nam & NXB Hội nhà văn, 2009)

http://nguyetvien.net/picture.php?al...9&pictureid=74


Giới thiệu nội dung

"Chúng ta đă bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời. Chúng ta đă dành cho con sự chăm sóc mà không hề nghĩ tới việc biến con thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống ḿnh, nhưng để yêu thương ai đó khác ḿnh thực sự rất khó khăn, và con đă giúp chúng ta làm được điều đó. Con là chim hải âu, và con phải sống cuộc đời của một con hải âu. Con phải bay."

Đó là lời của con mèo mun, to đùng, mập ú Zorba với cô nàng hải âu non bé bỏng đă được cộng đồng mèo ở bến cảng Hamburg chăm sóc và bảo vệ từ khi trứng nước. Câu chuyện thấm đẫm t́nh mèo và t́nh người này là một kiệt tác dành cho thiếu nhi của Luis Sepúlveda, một trong những nhà văn xuất sắc nhất Chi Lê hiện nay. Một câu chuyện khiến tâm hồn nở hoa, một thế giới vẹn nguyên, trong sáng và nhân hậu sâu xa, một cuốn sách như viên ngọc khó t́m, dành cho mọi trẻ em và người lớn...

"Một câu chuyện đầy cuốn hút về ḷng tận tâm và tầm quan trọng của việc giữ lời hứa." - Publisher Weekly

http://nguyetvien.net/picture.php?al...9&pictureid=75

----

Khi t́nh yêu cất cánh(Thứ sáu, 19/06/2009 09:27:27 AM)

Khi t́nh yêu cất cánh, một con mèo mun sẽ kiềm chế bản năng mà không ăn một quả trứng. Mèo cũng v́ t́nh thương và ḷng tự trọng của... “một con mèo” để ấp cái trứng lạ cho đến ngày nó mổ vỏ chui ra và gọi mèo là “má!”.

Khi t́nh yêu cất cánh, cả một bầy mèo có thể đồng tâm hiệp lực lấy chữ tín và “danh dự của nhà mèo” để bảo vệ tính mạng chim hải âu và làm được những việc phi thường.

Chuyện con mèo dạy hải âu bay chứa đựng cả một xă hội sinh động: mèo mập Zorba nghĩa hiệp, đại tá Bóng đêm quản lư an ninh trong cộng đồng mèo tại bến cảng, Einstein thông thái nhưng chuộng lư thuyết, mèo Bốn Biển từng trải, biết lẽ phải. Mọi rắc rối bắt đầu vào ngày hải âu mẹ Kengah đáp cánh xuống bancông nhà Zorba. Trước khi ĺa đời, Kengah nhờ Zorba thực hiện ba lời hứa với cái trứng mà cô mới vừa đẻ: một là không ăn cái trứng, hai là ấp cho trứng nở và ba là tập bay cho hải âu con.

Luis Sepúlveda đă đưa các nhân vật của ḿnh vào những t́nh huống lạ thường: mèo ấp trứng, chịu khó tập aerobic giảm cân để bắt ruồi cho hải âu con, nghiên cứu cả sách của Leonardo Da Vinci và t́m cách dạy bay cho hải âu, rồi chuyện đi t́m giới tính cho chim con - điều không được Bách khoa toàn thư của mèo Einstein nhắc đến, chuyện thương thảo với lũ chuột không được động đến chim non.

Khi tập bay cho chim hải âu Lucky là đồng ư để Lucky về với trời và biển, là mất Lucky khỏi ṿng tay bảo bọc của ḿnh nhưng bầy mèo vẫn thực hiện lời hứa, v́ yêu thương một ai đó là mong muốn họ được tự do. “Thật dễ dàng để chấp nhận và thương yêu một kẻ nào đó giống ḿnh, nhưng để yêu thương ai đó khác ḿnh thật sự là một điều rất khó khăn”. Thông điệp yêu thương giản dị của quyển sách đă thêu dệt nên một thế giới loài vật đầy ắp t́nh thương, vượt qua những quy tắc, bản năng. Giáo dục nhẹ nhàng và triết lư nhân văn dí dỏm, như vậy là quá đủ cho một quyển sách dành cho trẻ con.

(Nguồn: Báo Tuổi trẻ)

---------------

Yêu thương những ǵ không giống ḿnh(Thứ ba, 02/06/2009 03:49:50 PM)

Rằng, ở đâu đó trên mặt đất này, có một con mèo đực và một con mèo cái đă hợp tác với một anh chàng thi sĩ làm cho một chú hải âu con biết bay. Và quan trọng hơn, “họ” đă làm cho một con chim nhớ ḿnh là chim, chứ không phải là… mèo!

Một truyện có chất ngụ ngôn hiện đại. Nhưng xa hơn tính ngụ ngôn dân gian, nó tạo ra nhiều kịch tính và các chiều diễn tiến tâm lư, được kể với một giọng dí dỏm và đầy rung cảm giữa một thế giới mà loài vật sống chung với nhau, yêu thương bảo vệ nhau. Chúng không ngừng nghĩ về con người. Không ngừng đặt ra các câu hỏi về môi trường sống mà con người đang tác động có ảnh hưởng đến chúng, cả chiến tranh và sự bất đồng ngôn ngữ trong thế giới loài người…

Thế giới ấy vẫn đầy những bất ngờ “khó xử”. Quả trứng đẻ vội trước khi chết của một con hải âu dính váng dầu đă được trao gởi, ấp, nở bởi một con mèo. Và t́nh mẫu tử đă nảy sinh giữa con mèo với chú chim hải âu con bé bỏng, tha thiết đến độ chú chim non quên cả chuyện tập bay, nó đinh ninh ḿnh là một con mèo. Câu hỏi đặt ra: những con mèo phải làm sao để chú chim hải âu non hiểu rằng “gốc gác” của nó là hải âu?

Con mèo mun mập ú đă đi đến t́nh huống phải giảng giải với “con gái” ḿnh: “Chúng ta yêu con bởi v́ con là một con hải âu. Một con hải âu xinh đẹp. Chúng ta chưa từng phủ nhận khi nghe con nói con là mèo, bởi điều đó an ủi chúng ta rằng con muốn giống chúng ta, nhưng con khác với chúng ta và chúng ta vui với sự khác biệt đó. Chúng ta đă không cứu được mẹ con, nhưng chúng ta có thể giúp con. Chúng ta đă bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời. Chúng ta đă dành cho con sự chăm sóc mà không hề nghĩ tới việc biến con trở thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Chúng ta cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy, chúng ta là bạn con, là gia đ́nh của con, và chúng ta muốn con biết rằng nhờ con, chúng ta đă học được một điều đáng tự hào: chúng ta học được cách trân trọng, quư mến và yêu thương một kẻ không giống chúng ta! Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống ḿnh, nhưng để yêu thương ai đó khác ḿnh thật sự rất khó khăn, và con đă giúp chúng ta hiểu được điều đó. Con là chim hải âu, và con phải sống cuộc đời của một con hải âu. Con phải bay”.

Thế giới được trả về đúng như tự nhiên của nó khi con hải âu non cất cánh bay trên vùng trời tự do. Nó phải trở về với bản nguyên giống loài của ḿnh, với bầu trời phóng khoáng sau khi trải nghiệm t́nh yêu thương nơi cái góc cảng trên mặt đất. Nó không ám ảnh bởi cái chật chội hẹp ḥi của bọn chuột mưu toan, con đười ươi xấu tính hay những kẻ gây ô nhiễm mặt biển, mà sẽ ghi tâm những ḷng tốt, khát vọng tự do của một anh thi sĩ làm thơ cho thế giới tâm hồn thêm bay bổng, những con mèo dám làm cái công việc không dành cho loài mèo để bảo vệ sự sống của những giống loài khác!

Cuốn sách văn chương bay bổng và có minh hoạ sống động này có thể giúp cho cái nh́n của trẻ em chúng ta tươi mới, tinh tế và nhân hậu hơn khi cảm nhận vạn vật. Và quan trọng hơn, nó gợi mở những cuộc du hành bất tận vào cái không gian thiên nhiên đầy khai phóng, vượt thoát cho trí tưởng tượng, từ đó, độ lượng, nhân ái hơn trong những mối quan hệ với “người khác ḿnh” ở trong đời sống này.

(Nguồn: Báo SGTT)

----------


Link download : Chuyện con mèo dạy hải âu bay - Luis Sepúlveda


** [Something for everyone : Khuyến cáo là các bạn mua sách th́ sẽ thích đọc hơn đó. Cười nhe răng, v́ ḿnh thích nh́n ảnh minh họa cái con mèo béo ú, trông dễ thương lắm :luoi:]

hoatigon208410 16-02-11 04:01 PM

Chuyện Con Mèo Dạy Hải Âu Bay
(Truyện thiếu nhi của Luis Sepúlveda, Phương Huyên dịch, Bút Ch́ minh hoạ – Nhă Nam & NXB Hội nhà văn, 2009)


Cho con trai tôi Sabatían, Max và Léon
Những thủy thủ số một trong giấc mơ tôi
Cho cảng biển Hamburgs,
Bởi đó là nơi tôi từng sống
Và cho con mèo của tôi, Zorba, tất nhiên rồi



Phần 1

1. Biển Bắc

“Có đàn cá trích ven cảng ḱa,” hải âu trinh sát thông báo, và cả đàn chim từ ngọn Hải Đăng Cát
Đỏ đón nhận tin vui với những tiếng rít sung sướng vang dài.

Chúng đă bay liền một mạch sáu tiếng, và mặc dù những con hải âu hoa tiêu đă ḍ thấy luồng
khí nóng có thể giúp cả đàn lướt bay thoải mái trên những con sóng, chúng vẫn cần nạp lại năng lượng –
và c̣n ǵ tốt hơn là một bữa cá trích tươi ngon?

Chúng đang bay trên cửa sông Elber, nơi ḍng nước đổ vào biển Bắc. Từ không trung, chúng
thấy những con tàu lần lượt nối đuôi nhau như đàn cá voi kiên nhẫn và kỷ luật đang chờ tới lượt ḿnh ào
ra biển lớn. Khi đă ra khơi, đám tàu sẽ xác định phương hướng rồi tỏa đi tới mọi cảng biển trên khắp
hành tinh.

Kengah, cô hải âu có bộ lông màu bạc, đặc biệt thích thú quan sát mấy lá cờ của đám tàu, v́ cô
biết mỗi lá cờ đại diện cho một cách nói, cách gọi tên cùng một thứ bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.

“Loài người thật là vất vả với việc đó.” Kengah có lần từng nhận xét với một chị hải âu đồng
hành. “Không như hải âu bọn ḿnh, trên khắp thế giới cũng chỉ quang quác y như nhau.”

“Cô nói đúng. Kỳ quặc nhất là đôi khi họ vẫn t́m được cách để hiểu nhau đấy,” chị bạn quàng
quạc đáp lại.

Qua khỏi mép nước, quang cảnh chuyển dần sang màu lục tươi sáng. Kengah có thể nh́n thấy
băi chăn gia súc khổng lồ điểm xuyết những bầy cừu đang gặm cỏ trong ṿng tay bảo vệ của đê điều và
những cánh quạt trễ nải trên cối xay gió.

Theo sự hướng dẫn của hải âu hoa tiêu, đàn chim từ Hải Đăng Cát Đỏ đón lấy một luồng khí
lạnh rồi lao xuống vũng cá trích. Một trăm hai mươi thân h́nh lao xuyên mặt nước như những mũi tên,
và khi trở lại, con nào cũng có cá kẹp ngang mỏ.

Cá trích ngon tuyệt. Ngon và béo ngậy. Đó chính xác là thứ chúng cần để hồi phục năng lượng
trước khi tiếp tục hành tŕnh tới Den Helder, nơi chúng sẽ nhập cùng đàn từ quần đảo Frisian.
Theo như lịch tŕnh, chúng sẽ tiếp tục bay tới Calais, qua eo biển Dover, và trên không vực eo
biển Măng-sơ, chúng sẽ găp nhựng đàn chim bay từ vịnh Seine và vực Saint-Malo. Rồi chúng sẽ cùng
nhau bay tới vùng trời vịnh Biscay.

Khi đó, sẽ có tới cả ngh́n con hải âu, một đám mây bạc di chuyển nhanh nhẹn, có thể c̣n được
nhân rộng ra với những đàn chim tới từ Belle-île-en-Mer, từ île d’Oléron, mũi Machicano, mũi Ajo và
mũi Penas. Khi các đàn hải âu tuân theo luật biển và gió tập trung đầy đủ ở vịnh Biscay, Đại Hội Hải âu
các vùng Baltic, Biển Bắc, và Đại Tây Dương sẽ được bắt đầu.

Đó hẳn sẽ là những ngày tươi đẹp, Kengah mơ màng khi nuốt chửng con cá trích thứ ba. Đă
thành thông lệ hàng năm, chúng sẽ được lắng nghe những câu chuyện thú vị, đặc biệt là chuyện của đàn
hải âu từ mũi Penas, những kẻ ngao du không biết mệt mỏi, đôi khi c̣n bay xa tới tận quần đảo Canary
hay quần đăo mũi Verde.

Đám hải âu mái như cô sẽ dành trọn sức lực cho bữa tiệc cá ṃi hay mực ống, khi đám hải âu
trống xây tổ trên đỉnh vách đá. Ở đó, hải âu mái sẽ đẻ trứng, ấp ủ, bảo vệ chúng khỏi hiểm nguy, và rồi
sau khi chim non thay lông tơ và trổ những chiếc lông vũ đầu tiên, sẽ tới khoảnh khắc đẹp đẽ nhất trong
suốt cuộc hành tŕnh: dạy những chú hải âu con bay trên vịnh Biscay.

Kengah sục đầu xuống nước bắt con cá trích thứ tư, v́ thế cô không nghe thấy tiếng quang quác
báo động xé toạc cả không trung: “Cảng biển nguy hiểm! Cất cánh khẩn cấp!”

Khi Kengah nhô đầu khỏi mặt nước, cô nhận ra ḿnh hoàn toàn trơ trọi giữa đại dương bao la.

....

hoatigon208410 16-02-11 04:05 PM

2. Con mèo mun to đùng, mập ú



“Tao thật ghét phải để mày lại một ḿnh,” cậu nhóc nói, ve vuốt cái lưng con mèo mun to đùng,
mập ú.

Rồi cậu quay lại với việc nhét đồ đạc vào balô. Cậu chọn một băng cát-sét của The Pur, một
trong những thứ đồ cậu ưa thích, nhét nó vào balô, suy nghĩ, rồi lại lấy ra. Cậu không thể nào quyết
định được sẽ cất nó vào balô hay để nó lại trên bàn. Thật là khó biết cái ǵ nên mang theo và cái ǵ nên
để lại khi đi nghỉ mát.

Con mèo mun béo mập đang ngồi trên bậu cửa sổ, chỗ nó rất khoái, theo dơi cậu nhóc đầy chăm
chú.

“Tao đă bỏ kính bơi vào chưa ấy nhỉ? Zorba, mày có thấy cặp kính của tao đâu không? Mà
không. Mày không thể biết nó là cái ǵ v́ mày đâu có ưa nước. Mày không biết là mày đă bỏ phí cái ǵ
đâu. Bơi lội là một trong những tṛ thể thao hay ho nhất đấy. Làm một miếng không?” cậu bé hỏi, nhấc
hộp thức ăn Bé Mèo Măm Măm lên.

Cậu trút ra một phần ăn nhiều hơn cả mức hào phóng, và con mèo mun béo mập bắt đầu nhấm
nháp thật khoan thoai để kéo dài sự sung sướng. Đúng là một bữa ngon, gịn và đậm đà vị cá!
Cậu chủ quả là tốt bụng, con mèo nghĩ, miệng đầy những mảnh vụn. Ư ta là ǵ ấy nhỉ, một cậu
nhóc tốt bụng thôi ư? Cậu chủ phải là xịn nhất ấy chứ! Nó tự đính chính khi nuốt thức ăn.
Zorba, con mèo mun to đùng, mập ú, có lư do thích đáng cho quan điểm của ḿnh về cậu nhóc,
người không chỉ chịu xuất tiền tiêu vặt thết đăi Zorba món ngon mà c̣n giữ cho cái thùng nơi Zorba đi
vệ sinh luôn sạch sẽ. Cậu tán chuyện với nó và dạy dỗ nó những điều quan trọng.

Họ thường dành nhiều giờ ngồi ngoài ban công, ngắm cảnh giao thông rộn rịp ở cảng biển
Hamburg. Rồi kế đó, cậu nhóc sẽ bắt đầu nói, kiểu như, “Mày thấy cái thuyền kia không, Zorba? Mày
có biết nó từ đâu tới không? Từ Liberia đấy, một nước ở Châu Phi cực kỳ hay, do những người từng
sống đời nô lệ sáng lập. Khi nào lớn, tao sẽ trở thành thuyền trưởng một tàu viễn dương lớn, rồi tao sẽ
tới Liberia. Mày cũng sẽ đi cùng tao đấy, Zorba ạ. Mày sẽ là một con mèo vượt đại dương ngon lành.
Tao chắc chắn đấy!”

Giống như mọi đứa trẻ sống quanh khu cảng, cậu nhóc này cũng mơ mộng được du hành tới
những đất nước xa xôi. Con mèo mun to đùng, mập ú lắng nghe, gừ gừ trong cổ. Nó có thể tưởng tượng
ra ḿnh trên boong một con tàu viễn dương khổng lồ đang chạy xuyên qua những lớp sóng.
Đúng, Zorba rất yêu quư cậu nhóc và không bao giờ quên rằng nó nợ cậu mạng sống của ḿnh.
Món nợ của Zorba bắt đầu từ ngày nó bỏ cái giỏ vốn từng là mái ấm gia đ́nh cùng với bảy anh
chị em khác.

Sữa của mèo mẹ thật ngọt ngào, ấm áp, nhưng nó cũng muốn nếm thử mấy cái đầu cá mà người
ở chợ hay quẳng cho lũ mèo lớn. Nó cũng không định đi ăn mảnh một ḿnh. Không hề. Ư định của nó là
sẽ quay lại giỏ và bảo với các anh chị em khác, “Bú sữa mẹ thế này là đủ lắm rồi! Mọi người không thấy
mẹ gầy đi thế nào sao? Ăn miếng cá này đi, đây là thứ mà tất cả bọn mèo ở cảng đều ăn đó.”

Vài ngày trước khi Zorba rời khỏi giỏ, mèo mẹ đă rất nghiêm khắc nói với nó, “Con đă có chân
cẳng và giác quan nhanh nhạy. Mấy điều đó tốt thôi, nhưng con phải biết thận trọng mỗi khi đi đâu. Mẹ
không muốn con ḅ ra giỏ. Mai kia thôi, con người sẽ tới và quyết định số phận của con, cũng như của
các anh chị em con. Mẹ đảm bảo là họ sẽ đặt cho con cái tên hay và cho con mọi đồ ăn con muốn. Con
thật may mắn v́ được sinh ra ở cảng, người dân cảng thường yêu thương và bảo vệ loài mèo. Điều duy
nhất họ mong đợi ở chúng ta là giúp xua đuổi lũ chuột. Ồ, đúng rồi, con trai. Con thật may mắn khi là
một con mèo ở cảng, nhưng con vẫn phải cẩn thận. Chỉ có một điều ở con có thể gây ra rắc rối. Trông
các anh chị em của con đi, con trai. Con thấy tất cả chúng nó đều lông xám rồi chứ? Và lông của chùng
đều có vằn như da hổ. C̣n con, ngược lại, khi sinh ra đă đen từ đầu tới chân, chỉ trừ túm lông trắng
dưới cằm. Có những người c̣n tin là mèo đen mang tới điềm xấu. V́ vậy, con trai, mẹ không muốn con
ra khỏi giỏ.”

Nhưng Zorba, lúc đó chỉ là một quả bóng lông bé xíu đen óng như than, cứ lén ḅ ra khỏi giỏ.
Nó muốn ăn thử một cái đầu cá. Và nó cũng muốn biết thêm tí xíu về thế giới bên ngoài.
Nó cũng chưa đi được xa. Khi líu ríu t́m tới chỗ quầy cá với cái đuôi dựng đứng run run, nó
chạy ngang qua con chim to tướng đang gà gật, cái đầu ngoẹo sang một bên. Đó là một con chim cực kỳ
xấu xí với cái bọng lớn lủng lẳng dưới mỏ. Hẫng một cái, chú mèo con cảm thấy mặt đất dưới chân biến
mất và c̣n chưa hiểu chuyện ǵ đang xảy ra, nó đă nhận ra ḿnh đang lộn nhào trên không. Nhớ lại một
trong những lời dạy đầu tiên của mẹ, nó t́m vị trí có thể đáp xuống bằng cả bốn chân. Nhưng thay vào
đó, nó thấy bên dưới con chim đang ngoác cái mỏ chờ đón. Nó rơi tọt vào cái bọng, trong đó tối thui và
bốc mùi phát khiếp.

“Nhả tao ra! Nhả tao ra!” con mèo con gào lên tuyệt vọng.

“Úi… Nó biết nói,” con chim lầu bầu mà không cần mở mỏ. “Mày là cái giống ǵ thế?”

“Nhả tao ra không tao cào cho bây giờ,” con mèo ngao lên đe doạ.

“Tao nghĩ mày là con ếch. Mày có phải ếch không?” con chim hỏi, kẹp thật chặt cái mỏ dài.

“Ta chết ngộp trong này mất thôi, con chim ngu ngốc kia!” mèo con gào lên.

“Đúng rồi. Mày là ếch. Một con ếch đen. Kỳ quặc ghê.”

“Tao là mèo, và tao phát điên lên rồi đây. Nhả tao ra không th́ mày phải ân hận đấy!” Zorba bé
bỏng đe doạ, lần ṃ trong cái bọng tối thui để t́m chỗ cắm móng vuốt

“Mày tưởng là tao không biết mèo với ếch khác chỗ nào hử? Mèo có lông, nhanh nhẹn và có mùi
dép đi trong nhà. Mày là ếch. Có lần tao đă chén vài con ếch rồi, cũng không đến nỗi tệ. Nhưng chúng
đều có màu xanh. Nói xem, mày không phải ếch độc chứ, hử?” con chim rên lên, thoáng chút lo sợ.

“Đúng! Đúng, tao là con ếch độc, và hơn nữa, tao c̣n mang tai hoạ đến cho mày đấy!”

“Ôi, làm thế nào bây giờ? Tao từng xực nguyên con cầu gai độc mà vẫn sống ngon lành. Làm thế
nào bây giờ? Tao sẽ nuốt chửng mày hay nhè mày ra đây?” con chim phân vân.

Bỗng nó đột nhiên ngừng lải nhải, bắt đầu nhảy lên nhảy xuống và vỗ cánh bồm bộp.
Cuối cùng, nó cũng chịu há mỏ ra.Zorba bé nhỏ, người đầy nhớt dăi, cố ngoi đầu lên và nhảy ra ngoài.
Rồi nó thấy cậu nhóc đang tóm lấy cổ con chim, lắc lấy lắc để.

“Mày mù rồi hả, con bồ nông đần độn này! Lại đây nào, mèo con. Tí nữa th́ mày tiêu đời trong
bụng con chim già xấu xí kia rồi.” Cậu nhóc nói rồi bế Zorba lên tay.

Và đó là khoảnh khắc bắt đầu cho t́nh bạn kéo dài đă năm năm nay.

Nụ hôn của cậu nhóc trên trán làm phân tán những hồi tưởng của Zorba. Nó nh́n bạn ḿnh
khoác balô lên vai, đi ra cửa, và nán ở đó vẫy chào tạm biệt nó lần nữa.

“Bọn ḿnh sẽ không gặp nhau trong suốt bốn tuần lễ. Tao sẽ nhớ tới mày hàng ngày, Zorba ạ tao
hứa đấy.”

“Tạm biệt, Zorba!” “Tạm biệt” Hai thằng nhóc em cũng gào lên và vẫy chào rối rít.

Nó lắng nghe tiếng then cài cửa vang lên hai lần, rồi chạy tới cửa sổ nh́n xuống phố, quan sát
gia đ́nh chủ lái xe đi.

Con mèo mun béo mập hít một hơi sâu, khoan khoái. Trong suốt bốn tuần lễ, nó đàng hoàng là
chúa tể, là chủ nhân của cả căn hộ. Một người bạn của nhà chủ mỗi ngày sẽ tới mở một hộp đồ ăn mèo
và dọn dẹp cái thùng vệ sinh của Zorba. Có tới những bốn tuần để nằm ườn trên ghế bành, trên giường
hay vọt ra ban công, leo lên mái nhà lợp ngói, nhảy vù từ đó sang mấy cành cây dẻ già, rồi trượt theo
thân cây xuống sân trong, nơi nó vẫn khoái tụ tập cùng đám mèo hàng xóm. Nó sẽ chẳng thấy chán tí
nào đâu. Không đời nào!

Ít nhất đó là điều mà Zorba, con mèo mun to đùng, mập ú h́nh dung ra, bởi nó không thể nào
biết được chuyện ǵ sẽ tới.

hoatigon208410 16-02-11 04:17 PM

3. Hamburg trong tầm mắt



Kengah dang cánh bay lên, nhưng con sóng đang xô tới quá nhanh. Sức sóng nhấn ch́m cô xuống nước và khi cô ngoi được lên, ánh sáng ban ngày đă tắt. Cô lắc đâu lia lịa, nhận ra ḿnh vừa ngoi qua một lớp sóng đen đầy váng dầu suưt làm cô mù mắt.

Kengah, cô chim hải âu với bộ lông vốn màu ánh bạc, cố ngụp đầu sâu xuống nước cho tới khi chút ánh sáng le lói xuyên qua được lớp váng dầu nặng trịch đang che phủ mắt cô. Thứ chất lỏng dính như keo mà loài hải âu coi như tử thần màu đen của chúng giờ đây đang ép chặt đôi cánh vào mạng sườn cô. Cô cuống quưt đạp chân, hi vọng có thể bơi thật nhanh để thoát khỏi ḍng nước đen đó.

Toàn thân bị co rút căng cứng, nhưng cuối cùng cô cũng tới được mép lớp váng dầu và nhoài người sang vùng nước sạch. Cô chớp mắt liên hồi, cố rửa sạch bằng cách ngâm đầu thật lâu trong nước.

Nhưng khi ngước lên bầu trời, cô chỉ nh́n thấy vài cụm mây đang trôi bồng bềnh giữa mặt biển và ṿm trời khổng lồ. Bạn bè của cô trong đàn Hải Đăng Cát Đỏ đă bay đi xa, rất xa rồi.

Đó là quy định. Bản thân cô đă từng nh́n thấy những con chim hải âu khác hoảng loạn trước con sóng tử thần màu đen, và dù cả đàn đều muốn quay lại cứu giúp kẻ xấu số, nhưng chúng biết rơ rằng điều đó là không thể. Chúng chẳng giúp được ǵ nữa cả. Bởi vậy, đàn của cô cứ thế bay, tuân thủ luật cấm chứng kiến cái chết của thành viên trong bầy.

Với đôi cánh bất động, nhanh chóng bị dính chặt vào cơ thể, hải âu dễ dàng trở thành mồi cho cá lớn. Hoặc chúng phải chờ đợi cái chết từ từ, bị bóp ngạt bởi dầu thấm dần qua lớp lông vũ, bịt kín lỗ chân lông.

Kết cục nghiệt ngă của số phận đang chờ đợi Kengah. Cô chỉ ước sao có một bộ hàm lớn của con cá khổng lồ nào đó nhanh chóng nuốt chửng lấy ḿnh.

Bọn nhơ bẩn! Khi chờ đợi màn kết của cuộc đời ḿnh, Kengah nguyền rủa tất cả loài người. “Nhưng không phải tất cả họ. Công bằng là thế,” cô th́ thào yếu ớt. Từ trên trời cao, cô vẫn quan sát các con tàu chở dầu lớn thường lợi dụng những ngày có sương
mù dọc bờ biển, chạy hơi nước ra xa khỏi đất liền để thau rửa các thùng dầu. Người ta trút xuống biển hàng ngh́n lít thứ chất lỏng sền sệt, hôi hám đó rồi nhờ những con sóng đánh dạt ra xa. Nhưng cô cũng từng nh́n thấy mấy tàu nhỏ đi áp sát đám tàu chở dầu để ngăn chúng xả bừa băi. Đáng tiếc thay, những con tàu được phủ lên lớp sơn bảy sắc câu vồng đó thường không tới kịp để bảo vệ biển khỏi bị ô nhiễm.

Kengah trải qua những giờ phút dài nhất trong cuộc đời khi bập bềnh trên sóng, kinh hoàng tự hỏi phải chăng cô đang chờ đợi cái chết đáng sợ nhất trên đời. Kinh khủng hơn chuyện bị một con cá ăn thịt, kinh khủng hơn chuyện thể xác đớn đau v́ nghẹt thở, đó là chết đói. Tuyệt vọng với ư nghĩ về cái chết ṃn mỏi dó, cô cựa quậy và sửng sốt nhận ra lớp dầu không dính đét đôi cánh vào thân ḿnh. Cánh cô phủ đầy thứ chất đặc quánh đen ś, nhưng chí ít cô vẫn có thể dang chúng ra.

“Ḿnh có thể vẫn c̣n chút cơ hội để thoát khỏi cảnh này, và biết đâu, có thể nếu ḿnh bay cao, thật cao, mặt trời sẽ nung chảy lớp dầu,” Kengah thốt lên bi thảm. Cô nhớ lại câu chuyện của bác hải âu già từ quần đảo Frisian về một con người tên là Icarus. Để
thực hiện giấc mơ được bay liệng trên bầu trời, anh làm cho ḿnh một đôi cánh từ lông vũ đại bàng. Và rồi anh ta cũng bay được thật... bay cao, cao tận sát mặt trời, tới mức hơi nóng hun chảy lớp sáp anh dùng để kết dính những sợi lông, thế là anh rơi tuột xuống mặt đất.

Kengah đập cánh thật mạnh, quắp chân ra sau, lao lên cao được một thước trên mặt sóng, rồi lại rơi cắm đầu xuống nước. Trước khi cố thêm lần nữa, cô lặn xuống nước rồi di chuyển cánh từ sau ra trước. Lần này, cô đă bay cao được hơn ba thước trước khi rơi xuống. Thứ dầu đáng nguyền rủa đă ken chặt phần lông đuôi khiến cô không thể nào điều khiển được hướng bay lên của ḿnh. Cô lặn xuống lần nữa và cố rỉa cho hết thứ chất đặc quánh dính chặt lấy đuôi ḿnh. Cô cố chịu đựng đau đớn mỗi khi không may rứt phải một chiếc lông vũ, cho tới lúc cảm thấy vừa ḷng rằng bộ phận điều chỉnh hướng của ḿnh đă được giải phóng chút ít.

Tới lần nỗ lực thứ năm, Kengah đă thành công: cô bay lên được.

Cô đập cánh điên cuồng, nhưng sức nặng của lớp dầu khiến cô không thể lướt bay được nữa. Chỉ một phút ngơi nghỉ, cô đă lộn nhào xuống dưới. May thay, cô vẫn c̣n trẻ, cơ bắp vẫn phản ứng ổn thoả được ngay.

Cô bay lên cao hơn nữa. Vỗ cánh, vỗ cánh không ngừng, cô nh́n xuống và mơ hồ nhận ra đường viền trắng mờ của bờ biển. Cô cũng nh́n thấy vài ba con tàu đang di chuyển như những vật thể nhỏ xíu trên lớp áo xanh đại dương. Cô bay lên cao, nhưng niềm hy vọng vào sức nóng mặt trời đă không thành.

Có thể nhiệt độ của những tia nắng quá yếu ớt, hay tại lớp dầu trên thân thể cô quá dày.
Kengah biết rằng sức cô không thể duy tŕ thêm được nữa, bởi vậy, cô bay vào đất liền, cố t́m một nơi để hạ cánh, dọc theo lằn xanh ngoằn ngoèo của ḍng Elbe.

Những cú đập cánh càng lúc càng trở nên nặng nề, cô đuối sức. Cô bay mỗi lúc một thấp hơn. Trong nỗ lực tuyệt vọng để bay cao lên chút nữa, cô nhắm chặt mắt và đập cánh với chút sức lực c̣n lại. Cô không biết ḿnh đă nhắm mắt bao lâu, nhưng khi mở ra, cô thấy ḿnh đang bay trên một toà tháp cao có phong hướng tiêu1 nạm vàng trên đỉnh.

“Nhà thờ Thánh Michael!” cô rền rĩ khi nhận ra toà tháp nhà thờ Hamburg.

Đôi cánh không thể vỗ thêm một lần nào nữa.

hoatigon208410 16-02-11 04:20 PM

4. Kết thúc chuyến bay


Con mèo mun to đùng, mập ú đang sưởi nắng ở ban công, rên gừ gừ, yên ổn tận hưởng cảm giác sung sướng được nằm ườn ra đấy, phơi bụng, khoan khoái trong ánh mặt trời ấm áp, bốn bàn chân nó thu lại và cái đuôi duỗi dài.

Đúng vào khoảnh khắc nó đang lật người lại để phơi lưng ra dưới nắng, nó chợt nghe thấy tiếng vù vù từ một vật thể bay mà nó không thể xác định được, một cái ǵ đó đang lao tới với tốc độ kinh khiếp. Báo động! Nó nhảy dựng lên, bốn chân lấy đà, sẵn sàng nhảy sang một bên để né cô chim hải âu đang rơi thẳng xuống ban công.

Đó là một nàng chim hết sức dơ bẩn. Toàn thân cô bám đầy thứ chất đen ś, hôi ŕnh.
Zorba nhích tới khi cô hải âu lẩy bẩy cố đứng lên, kéo lê theo đôi cánh: “Đáp cánh cũng không được duyên dáng lắm nhỉ,” nó bảo.

“Tôi xin lỗi. Tôi không làm sao khác được,” cô chim áy náy nói.

“Mièo ơi! Cô em trông kinh quá! Cái thứ gớm ghiếc ǵ bám đầy người cô em thế kia! Mà cô em bốc mùi ghê quá đi thôi!” con mèo hít hít.

“Tôi bị đắm trong váng dầu. Tử thần nơi biển cả. Tôi sắp chết rồi!” cô hải âu rên lên ai oán.

“Chết? Nói tầm bậy tầm bạ! Cô em mệt và bẩn một tí. Thế thôi. Sao cô em không bay sang chỗ vườn thú ấy? Cũng chẳng xa đây lắm đâu, ở đó các bác sĩ thú ư có thể chăm sóc cho cô em,” Zorba nói.

“Tôi không thể. Đây là chuyến bay cuối cùng rồi,” cô chim th́ thào gần như không thành tiếng, rồi nhắm mắt lại.

“Đừng có chết ở đây. Nghỉ ngơi một tí đi, cô sẽ thấy khá lên thôi. Cô đói không? Tôi sẽ mang cho cô chút thức ăn của tôi, làm ơn đừng chết,” Zorba van xin, ḅ sát lại cô hải âu đă lịm đi.

Vượt qua cảm giác ghê tởm, con mèo liếm lên đầu cô hải âu. Thứ chất màu đen bám lên cô có vị khủng khiếp y như mùi. Khi đầu lưỡi nó lướt trên cổ cô chim, con mèo có thể nhận thấy hơi thở cô chim đang càng lúc càng yếu ớt.

“Nghe này, cô bạn nhỏ. Tôi muốn giúp cô, nhưng tôi chẳng biết làm thế nào cả. Cố nghỉ ngơi đi, trong lúc tôi chạy đi t́m cách nào cứu một con hải âu ốm,” Zorba nói vọng lại, lấy đà nhảy lên trên nóc nhà.

Khi nó đang chuyển hướng nhảy sang phía cây dẻ, nó nghe thấy tiếng cô chim gọi nó quay lại.

“Cô muốn tôi cho cô một chúc thức ăn à?” nó hỏi hơi vững dạ.

“Tôi sắp sinh một quả trứng. Với tất cả sức lực c̣n lại, tôi sẽ sinh một quả trứng. Bạn mèo tốt của tôi, ai cũng có thể thấy anh là một con vật rất tử tế có tấm ḷng nhân ái cao quư. Bởi vậy, tôi muốn anh hứa với tôi ba điều. Anh hứa với tôi được không?” Kengah nói, cố gắng chậm chạp đứng lên, nhưng vô ích.

Zorba nghĩ cô chim khốn khổ này đang bị mê sảng rồi, và v́ cô đang rơi vào t́nh trạng đáng thương tới mức ấy, nó không c̣n lựa chọn nào khác ngoài cách tỏ ra rộng lượng. “Tôi hứa là tôi sẽ làm những ǵ cô muốn. Nhưng bây giờ, cô cứ nghỉ ngơi cái đă,” nó nói đầy thương cảm.

“Tôi không c̣n thời gian nữa rồi. Hăy hứa với tôi anh sẽ không ăn quả trứng!” Kengah mở mắt, thều thào.

“Tôi xin hứa rằng tôi sẽ không ăn quả trứng!” Zorba lặp lại câu nói.

“Hứa với tôi anh sẽ chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non ra đời,” cô nói, rướn cổ cao lên một chút.

“Tôi xin hứa rằng tôi sẽ chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non ra đời.”

“Và hăy hứa với tôi anh sẽ dạy nó bay,” Kengah hổn hển nói, nh́n thẳng vào mắt con mèo.

Đến lúc này th́ Zorba biết cô chim tội nghiệp không chỉ mê sảng, cô ta khùng hoàn toàn rồi.

“Tôi hứa là sẽ dạy nó bay. Và giờ th́ cô nghỉ ngơi đi, tôi đi kiếm người giúp,” Zorba bảo cô, nhảy phốc một cái lên mái nhà lợp ngói.

Kengah nh́n lên bầu trời, tạ ơn những làn gió tốt lành đă nâng cánh cô trong suốt cuộc đời, và cô trút hơi thở cuối cùng, một quả trứng lốm đốm xanh lăn ra từ cơ thể đẫm dầu của cô.

hoatigon208410 16-02-11 04:30 PM

5. Kiếm t́m lời khuyên




Zorba phi như tên bắn xuống khỏi cây dẻ, chạy một mạch qua sân trong để tránh mấy con chó đi rông, rời khỏi ngôi nhà, ngó chừng kỹ càng xem có chiếc xe ô tô nào đi qua không rồi mới băng sang đường, thẳng tới Cuneo, một nhà hàng Ư trên bến cảng.

Hai con mèo hoang đang ngửi ngửi thùng rác thấy nó chạy hối hả ngang qua.

“Ê, cu! Mày có thấy cái tao vừa thấy không? Rời mắt khỏi miếng bánh ḿ nuột nà đó coi nào,” một con nheo nhéo nói.

“Đây đây. Sao mà đen quá thế. Nó làm mày nhớ đến viên mỡ lợn hả? Ối không, trông giống cục nhựa đường hơn. Chạy đi đâu đấy, nhựa đường?” con đầu tiên cất tiếng.

Dù rất lo lắng cho cô hải âu, nhưng Zorba không thể bỏ qua cơ hội ra oai với hai con mèo đầu đường xó chợ này. V́ thế, nó tạm ngưng công cuộc chạy, rồi với bộ lông xù ra, dựng đứng ở hai bên mạng sườn, nó nhảy phắt lên nắp cái xô rác.

Rất chậm răi, nó chĩa bàn chân trước ra, xoè tưng cái vuốt vừa cong vừa dài như kim khâu thảm, dí sát vào mặt con mèo mà nó cho rằng ḿnh có thể át vía được. “Thích chơi không? Ờ, tao c̣n chín cái vuốt ngon hơn nữa kia. Mày có thích nếm vài cú cào ở miếng sườn vàng khè của mày không?” nó hỏi bằng giọng thách thức.

Nh́n cái vuốt đang dứ ngay trước mắt, con mèo kia lập cập măi rồi mới cất nên lời: “Em đâu dám, đại ca. Đẹp trời quá nhỉ? Đại ca có thấy thế không?” Mắt con mèo hoang cứ trân trối nh́n vào cái vuốt.

“C̣n mày? Mày định lèm bèm ǵ?” Zorba hất mặt sang con mèo thứ hai.

“Hơ, em cũng nghĩ hôm nay tốt trời ạ. Rất tốt để đi dạo ạ, à, có thể hơi lạnh một tí ạ.”

Giải quyết xong vụ vặt vănh đó, Zorba lại hối hả chạy tới nhà hàng, nơi những người phục vụ đang chuẩn bị bàn cho khách ăn trưa. Nó dừng lại ở cửa, meo lên ba tiếng, và ngồi xuống đợi. Vài phút sau, Secretario - một con mèo nhập cư gốc Ư gầy g̣ bước ra. Râu ria nó gần như trụi cả, chỉ c̣n hai sợilông dài ở hai bên cánh mũi.

“Scusi (Scusi: tiếng Ư, nghĩa là “Xin lỗi”), chúng tôi xin rứt xin lỗi, nhưng nếu quư khách chưa đặt bàn, chúng tôi xin lỗi không thể phục vụ được. Quán đă rất đông rồi,” Secretario nói bằng giọng Ư lơ lớ. Nó c̣n định nói thêm vài từ, nhưng Zorba đă cắt ngang.

“Tôi muốn nói chuyện với ngài Đại Tá một tí. Chuyện khẩn cấp!”

“Khẩn cấp! Lúc nào mà chă có gă nào đó với ba cái chiện cấp tốc vào giờ chót. Để tôi coi có làm được ǵ không, nhưng chỉ là v́ nó rứt khẩn cấp đấy nhá,” Secretario ngoao lên, rồi lui vào trong nhà hàng.
Tuổi tác của ngài Đại Tá là một điều bí mật. Có kẻ nói ngài đă nhiều tuổi như cái quán ăn mà ngài gọi là nhà này, một số khác khăng khăng thậm chí ngài c̣n già hơn. Nhưng tuổi tác không là vấn, bởi lẽ tất cả mọi người đều nhớ rằng từ hồi c̣n trẻ, ngài đă lừng danh với tên gọi Đại Tá Bóng Đêm, và rằng ngài có được biệt tài kỳ lạ trong việc đưa ra lời khuyên cho lũ mèo gặp rắc rối. Cho dù ngài chưa từng ḥa giải được vụ ẩu đả nào, nhưng chỉ riêng lời khuyên của ngài thôi đă làm dịu bớt t́nh h́nh rồi.

Với tuổi tác và tài năng đó của ḿnh, ngài Đại Tá là một trong những con mèo lănh đạo có uy quyền nhất ở cảng.

Secretario đủng đỉnh quay lại.
“Theo tôi. Ngài Đại Tố sẽ gặp anh, thật chă giống b́nh thường…,” nó bảo.

Zorba đi theo nó. Lách qua những chân bàn chân ghế, chúng đi thằng về phía cánh cửa hầm rượu. Chúng nhảy xuống bậc của cái cầu thang hẹp và ở dưới đáy hầm là ngài Đại Tá, đuôi như cái cột cờ, đang kiểm tra nút bấc của mấy chai sâm banh.

Porca miseria (Porca miseria: tiếng Ư, nghĩa là “khốn khổ khốn nạn”)! Bọn chuột đă nhằn hết nút mấy chai ngon nhất trong nhà rồi. Ô Zorba! Caro Amico (Caro amico: tiếng Ư, nghĩa là “bạn quư”)!” Đại Tá cất lời chào người bạn thân của ngài. Cũng giống như Secretario, ngài Đại Tá khoái khoe khoang một chút nguồn gốc Ư của ḿnh.

“Mong ngài tha thứ cho tội quấy rầy khi ngài đang bận bịu, nhưng tôi gặp một chuyện nghiêm trọng lắm và cần lời khuyên của ngài” Zorba phân trần.

“Ta luôn sẵn sàng phục vụ, caro amico. Secretario! Đăi mio amico (Mio amico: tiếng Ư, nghĩa là “bạn của ta”.) đây một chút lasagna alforno (Lasagna al forno: Món của người Ư bao gồm ḿ sợi, thịt ḅ, pho mát, cà chua và các nguyên vật liệu khác trộn lẫn và nướng trong ḷ) mà họ cho chúng ta sáng nay,” ngài Đại Tá ra lệnh.

“Nhưng hít rồi. Mà tôi mới khịt mũi một cái không hơn đấy,” Secretario làu bàu.

Zorba cảm ơn, và nói dù sao ḿnh cũng chưa đói. Nó vội vàng kể về sự xuất hiện kịch tính, t́nh trạng đáng thương của cô hải âu cùng những lời hứa mà nó buộc phải nói với cô. Con mèo già yên lặng lắng nghe, rồi nó vừa ngẫm nghĩ về vấn đề vừa giật giật sợi ria dài. Cuối cùng nó ngao lên, “Porcamiseria! Chúng ta phải giúp cô nàng hải âu đáng thương kia có thể bay trở lại.”

“Đúng,” Zorba gật đầu. “Nhưng bằng cách nào?”

“Sao chúng ta không tới gặp ngài giáo sô, ngài Einstein ấy. Ngài bít hết mọi thứ trên đời mà,” Secretario đề nghị.

“Đúng. Ư kiến hay đấy. Tôi sẽ tới gặp Einstein.” Zorba đồng t́nh.

“Chúng ta cùng đi. Trên bến cảng này, vấn đề của một con mèo là vấn đề của tất cả đồng bọn mèo,” ngài Đại Tá long trọng tuyên bố.

Ba con mèo rời khỏi căn hầm, băng qua hành lang bên trong dăy nhà trông ra bến cảng, hối hả chạy tới ngôi đền của con mèo có tên là Einstein.

hoatigon208410 16-02-11 04:36 PM

6. Chốn kỳ lạ



Einstein ngụ ở một nơi tương đối khó miêu tả, thoạt nh́n bạn có thể cho rằng đó là một cửa hàng bừa bộn các loại máy móc kỳ cục, một bảo tàng trưng bày mấy thứ lai căng chả-biết-gọi-là-ǵ, một nhà kho chứa mớ đồ cơ khí biết-chết-liền, một thư viện hỗn độn nhất thế giới hoặc pḥng thí nghiệm các linh kiện kỳ dị của nhà phát minh thông thái nào đó. Nhưng nó không là bất kỳ thứ nào ở trên, hoặc đúng ra nó c̣n hơn cả tất cả những thứ kia cộng lại.

Nơi đó có tên Hiệu tạp hoá Bến cảng Harry, và chủ nhân của nó, ông Harry, là một thủy thủ già lăo luyện, suốt mười lăm năm rong ruổi qua mọi đại dương, đă dâng hiến ḿnh cho việc sưu tầm tất cả đồ vật có thể t́m thấy trên hàng trăm bến cảng ông từng ghé qua.

Khi tuổi già đă in dấu lên xương cốt, ông Harry quyết định kết thúc cuộc đời đi biển của ḿnh để trở thành người sống trên cạn, và mở một hiệu tạp hoá để bày mớ đồ sưu tầm hỗn độn kia. Ông đă thuê một ngôi nhà ba tầng trên con phố ở ngay cảng biển, nhưng rơ là nó quá nhỏ để trưng bày hết đồ đạc của cửa hiệu tạp hoá lạ lùng. Rồi ông thuê tiếp căn bên cạnh, một ngôi nhà hai tầng và cũng tương tự, nó vẫn chưa đủ lớn. Sau khi đă thuê nốt ngôi nhà thứ ba, ông mới có thể trưng bày toàn bộ khối đồ đạc theo trật tự, thật thế, với một lối cảm quan sắp xếp rất đỗi kỳ cục.

Ở trong ba ngôi nhà, nối với nhau bằng những cầu thang hẹp, có tới cả triệu thứ đồ vật.

Trong số chúng, vài món đáng được lưu ư đặc biệt: 7200 mũ vành mềm, không bị thổi bay trong gió; 160 bánh xe từ những chiếc tàu đă phát chóng mặt v́ đi ṿng quanh thế giới; 245 đèn tàu soi xuyên làn sương mù dày mờ như súp đậu; 12 máy điện tín chạy điện méo mó dưới bàn tay chắc khoẻ của những thuyền trưởng hay la lối; 256 la bàn khôngbao giờ xoay về hướng Bắc; 6 con voi gỗ to như thật; 2 con hươu cao cổ nhồi bông tạo dáng như đang nh́n ngắm thảo nguyên; 1 con gấu Bắc cực nhồi bông có cánh tay phải của nhà thám hiểm người Nauy trong bụng; 700 cái quạt mỗi khi quay lại gợi nhớ tới làn gió chiều trong lành ở xứ nhiệt đới; 1200 vơng đay canh chừng cho giấc ngủ đêm ngon lành; 1300 con rối ở đảo Sumatra không biểu diễn ǵ khác ngoài những câu chuyện t́nh; 129 bảng chiếu phong cảnh những miền đất nơi người ta luôn hạnh phúc; 54000 cuốn tiểu thuyết được viết bằng 47 ngôn ngữ; 2 phiên bản tháp Eiffel, cái thứ nhất làm từ nửa triệu đinh ghim, cái thứ hai là từ 300000 que tăm; 3 khẩu pháo của cướp biển Anh; 17 mỏ neo dưới đáy biển Bắc; 2000 bức vẽ hoàng hôn; 17 máy đánh chữ từng thuộc về những nhà văn danh tiếng; 128 quần flanen dài dành cho người cao trên mét tám; 7 áo khoác dự tiệc cho người lùn; 500 tẩu thuốc nhét đầy bọt biển; 1 dụng cụ đo thiên thể khăng khăng chỉ về cḥm Nam Thập Tự; 7 vỏ ốc khổng lồ từ đó vọng tiếng xa xăm của những con tàu ma bí ẩn; 12 kilômét lụa đỏ; 2 cánh cửa tàu ngầm; và một loạt những thứ kỳ quặc khác quá vụn vặt để liệt kê.

Muốn thăm hiệu tạp hoá của Harry, bạn phải trả lệ phí vào cửa, và một khi đă bước vào trong, bạn phải có khả năng định hướng đâu ra đấy nếu không muốn đi lạc trong mê cung của những căn pḥng không cửa sổ, hành lang dài và cầu thang hẹp.
Harry nuôi hai thú cưng: Matthew, con đười ươi làm việc với tư cách nhân viên thu vé kiêm bảo vệ cho người thuỷ thủ già, cùng ông chơi cờ đam – dĩ nhiên nó chơi rất tệ, uống bia của ông, và cố bày tṛ bịp mấy vị khách. Con vật may mắn c̣n lại là Einstein, một con mèo xám gầy g̣, nhỏ con, dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu hàng ngh́n cuốn sách từ bộ sưu tập của ông chủ.

Đại Tá, Secretario và Zorba lon ton chạy vào hiệu tạp hoá với ba cái đuôi chổng ngược. Chúng tiếc rẻ khi không thấy Harry đằng sau quầy bán vé bởi ông cụ thường nói những lời âu yếm và ban cho chúng mấy mẩu xúc xích.

“Này này hượm đă, bọn nhếch nhác kia! Chúng mày quên không trả tiền rồi,” Matthew lào khào quát.

“Từ thưở nào các gatto(1) phải trả tiền thế?” Secretario phản ứng.

“Bảng trước cửa đă ghi: ‘Phí vào xem: 2 mác’. Không thấy ghi mèo được xem miến phí. Tám mác đưa đây không th́ biến,” con đười ươi rít lên đanh gọn.

“Scusi, xi-nho (2) Khỉ, nhưng tôi sợ rằng đếm chác không phải thế mạnh của ông,” Secretario trả miếng.

“Đấy đúng là điều ta định nói. Một lần nữa, anh lại chặn ngang lời của ta,” Đại Tá phàn nàn.

“Bla bla bla. Hoặc trả tiền hoặc đi ra,” Matthew nạt nộ.

Zorba vọt lên bàn bán vé và nh́n trừng trừng vào mắt con đười ươi. Nó nh́n cho tới khi Matthew phải chớp mi, ứa cả nước mắt. “Thôi được rồi, th́ sáu mác. Con đười ươi nào cũng có thể tính nhầm,” Matthew the thé.

Zorba vẫn nh́n chằm chằm vào nó, bật ra một cái vuốt ở bàn chân trước bên phải. “Mày thích cái này không, Matthew? Này, tao c̣n có tới chín cái nữa đấy. Mày có tưởng tượng được cả mười cái cắm vào bộ đít đỏ mà lúc nào mày cũng vênh váo phơi ra không?” nó từ tốn đe doạ.

“Ơ, lần này th́ tôi sẽ làm ngơ vậy,” con đười ươi gật gù, cố tỏ vẻ b́nh tĩnh. “Các anh có thể vào.”

Ba con mèo, đuôi vểnh cao kiêu hănh, biến mất trong mê cung của những hành lang.

--

1. Gatto: Tiếng Ư, nghĩa là “mèo”.
2 . Xi-nho: Tiếng Ư, nghĩa là “ông”, “ngài”

hoatigon208410 16-06-11 01:33 PM

7. Giáo sư mèo



“Khủng khiếp! Khủng khiếp! Một điều khủng khiếp đă xảy ra,” Einstein rền rĩ, con mèo đó, rất xứng đáng với cái tên của ḿnh, biết tất cả mọi điều cần phải biết.

Nó đang căng thẳng đi tới đi lui trước cả đống sách để mở trên sàn nhà, thỉnh thoảng lại lấy hai chân trước ôm đầu. Nó xem chừng đang thật sự tan nát cơi ḷng.

“Có điều ǵ… sai trái ạ?” Secretario hỏi.

“Đó chính xác là điều ta đang định hỏi đấy,” Đại Tá nói, tỏ vẻ không hài ḷng.

“Thôi nào. Có chuyện ǵ mà tệ đến thế,” Zorba bày tỏ ư nghĩ.

“Không tệ đến thế à? Khủng khiếp. Khủng khiếp lắm! Bọn chuột đáng nguyền rủa đó đă gặm nát cả một trang của tập bản đồ. Bản đồ Madagascar tiêu rồi. Khủng khiếp quá đi mất,” Einstein giận dữ phản đối, giật bần bật mấy sợi râu.

“Secretario, nhớ nhắc ta rằng phải trị cho lũ phá hoại Masacar... Masgacar… ờ, anh biết ta định nói ǵ rồi đấy,” Đại Tá bảo.

“Madagascar,” Secretario phát âm lại chuẩn xác.

“Chúng tôi sẽ giúp ông một tay, Einstein, nhưng lúc này chúng tôi có mặt ở đây bởi chúng tôi có rắc rối lớn, và v́ ông biết tất cả mọi điều, có thể ông sẽ giúp được chúng tôi,” Zorba giải thích, và ngay lập tức kể lại câu chuyện của cô hải âu cho Einstein nghe.

Einstein chăm chú lắng nghe. Nó gật đầu tiếp nhận các chi tiết, và mỗi lúc cái đuôi giật giật đầy căng thẳng trước những xúc cảm mà lời kể của Zorba khuấy động, nó lại cố đè đuôi dưới hai chân sau. “… và v́ thế tôi để cô ấy nằm đấy, trong t́nh trạng tệ lắm, mới một lúc thôi…” Zorba kết thúc câu chuyện.

“Câu chuyện khủng khiếp! Khủng khiếp! Hừmmm, để tôi xem… hải âu… hải âu… dầu… dầu… hải âu bị ốm… chính là nó! Chúng ta phải tra cứu từ điển bách khoa thôi!” Einstein la lên vui mừng.

“Tra cứu ǵ cơơ?” ba con mèo kia hỏi.

“Từ-điển-bách-khoa. Cuốn sách tri thức. Chúng ta phải tra ở tập bốn và tập tám, tương ứng với chữ D cho dầu và chữ H cho hải âu.” Einstein nói rành mạch.

“Thế th́ cho chúng tôi xem cái từ đẻn… từ đẻn bác kho… cái thứ đó đi,” Đại Tá tỏ ư không bằng ḷng.

“Từ-điển-bách-khoa,” Secretario phát âm từ tốn.

“Th́ đó là cái ta định nói đấy mà!” Đại Tá nổi cáu.

......

hoatigon208410 16-06-11 01:33 PM

Einstein trèo lên trên đống lỉnh kỉnh đồ đạc, nơi mấy cuốn sách dày cộp, nom rất bệ vệ ngự thành một hàng. Khi đă ḍ ra được chữ D và chữ H trên gáy sách, nó khều chúng rơi xuống khỏi giá. Rồi nó nhảy xuống, với mấy cái móng cụt ngủn ṃn đi v́ đă giở qua quá nhiều cuốn sách, nó lật hết trang này sang trang nọ. Đám mèo c̣n lại theo dơi và kính cẩn lặng yên mỗi khi nghe những tiếng meo hết sức khẽ khàng của Einstein.

“Đúng rồi, tôi tin là chúng ta đă đi đúng đường. Thú vị lắm. Chúng ta sắp tới nơi rồi. Đây là “đoạn đầu đài.” Xin cảm ơn, vô cùng thú vị. Nghe này, các bạn: ‘hệ thống gồm có một lưỡi dao nặng treo cao, giữa hai cây cọc dựng thẳng và được thả xuống để chặt đầu nạn nhân bên dưới.’ Ôi trời. Thật là Khủng khiếp,” Einstein kêu lên như bị mê hoặc.

“Chúng tôi chă hứng thú ǵ với đoạn đầu đài. Chúng tôi ở đây v́ một cô hải âu,” Secretario cắt ngang.

“Thứ lỗi cho tôi. Đoạn đấy chỉ để dành cho chính tôi, từ điển bách khoa thật không thể cưỡng lại nổi. Lần nào nh́n vào các trang sách, tôi cũng học được thêm một thứ mới,”

Einstein xin lỗi, và tiếp tục lật giở. “A, hải tảo, hải lưu, hải chiến… hải âu!”

Nhưng những ǵ từ điển bách khoa nói về hải âu không có ích cho lắm. hầu như tất cả những ǵ chúng nhận được là hải âu thuộc loài Ngân âu, có tên gọi đó bởi lông chúng có màu trắng bạc.

Và những ǵ chúng t́m được về dầu cũng vô ích trong việc chỉ cho chúng làm thế nào để cứu cô hải âu. Tệ hơn nữa, chúng phải dỏng tai nghe một bài giảng dài ngoằng của Einstein - kẻ khăng khăng muốn nói về Chiến Tranh Vùng Vịnh vào thập niên 90.

“Ôi rắc rối rồi đây! Chúng ta quay lại điểm bắt đầu rồi,” Zorba thốt lên.

“Thật là khủng khiếp! Khủng khiếp! Lần đầu tiên cuốn từ điển bách khoa làm tôi thất vọng,” Einstein rầu rĩ thừa nhận.

“Và trong cái Tuỳ điển.. cái tự đền bạch hổ.. ờ, anh biết ta định nói ǵ rồi đấy, có lời khuyên thiết thực nào bảo cách tẩy lớp váng dầu không?” Đại Tá thắc mắc.

“Sáng tạo lắm! Sáng tạo tuyệt vời! Đó chính là chỗ chúng ta có thể bắt đầu. Tôi sẽ lấy tập hai mươi ngay lập tức, chữ T cho ‘tẩy vết bẩn’,” Einstein thốt lên như mê sảng khi nó nhảy lên giá sách.

“Anh thấy chưa? Nếu anh ngưng được thói quen lố bịch là cướp lời ta th́ chúng ta đă biết nên làm ǵ vào lúc này rồi,” Đại Tá gắt gỏng với Secretario - kẻ giờ đang yên lặng.

Trên trang sách có chữ ‘tẩy vết bẩn,” ngoài việc hướng dẫn tẩy vết chanh, mực Tàu, máu và xirô mâm xôi, chúng đă t́m được phương thức để tẩy váng dầu.
“‘Lau sạch phần bị bám váng với một miếng giẻ tẩm benzen.’ Chúng ta t́m thấy rồi!” Einstein ngoao lên.

“Chúng ta làm ǵ có thứ đó,” Zorba khịt mũi với một vẻ châm biếm rơ là không thành công lắm.

“Chúng ta có thể t́m thấy benzen ở cái nơi chết tiệt nào kia chứ?”

“Ờ, nếu ta không nhầm, trong hầm nhà chúng ta có một cái can lớn đựng đầy chổi sơn được ngâm trong benzen. Secretario, anh biết anh phải làm ǵ rồi đấy,” Đại Tá la lớn.

“Scusi, xi-nho, nhưng tôi không hiểu ,” Secretario xin lỗi.

“Rất đơn giản: dễ lắm. Anh nhúng cái đuôi của ḿnh vào benzen, rồi chúng ta sẽ chạy tới lo cho cô hải âu tội nghiệp,” Đại Tá giảng giải, mắt nh́n lảng sang hướng khác.

“Á, không! Không được ! Không phải tôi!” Secretario phản đối.

“Ta nhắc lại cho anh là trong thực đơn chiều nay suất gan và nước sốt sẽ tăng gấp đôi,” Đại Tá ngâm nga.

“Nhúng đuôi của tôi vào cái của benzina đấy… Ôi Mamma mia1! Có phải ngài vừa nói gan với nước sốt không?”

Einstein quyết định sẽ đi cùng chúng, vậy là cả bốn con mèo phi thẳng về phía cửa ra. Khi đưa mắt nh́n theo đám mèo, con đười ươi - kẻ vừa nốc cả vại bia – ra vẻ đồng t́nh với chúng bằng một chuỗi ợ không thành tiếng.

hoatigon208410 16-06-11 01:34 PM

8. Zorba bắt đầu thực hiện lời hứa của ḿnh


Bốn con mèo nhảy từ mái nhà xuống ban công, và ngay lập tức biết rằng chúng đă về quá muộn. Đại Tá, Einstein và Zorba ngắm nh́n h́nh hài không c̣n sự sống của cô hải âu đầy thành kính, c̣n Secretario quất cái đuôi của ḿnh trong gió để mùi benzen bay đi.

“Ta tin chúng ta nên khép lại đôi cánh cho cô ấy. Đó là điều phải làm trong t́nh huống này,” Đại Tá buồn bă nói.

Vượt qua cảm giác khó chịu với những chiếc lông vũ dính đầy dầu, chúng khép đôi cánh sát vào cơ thể cô hải âu, và khi đang làm việc đó chúng phát hiện ra quả trứng màu trắng đốm xanh.

“Quả trứng! Cô ấy đă làm được rồi! Cô ấy đă sinh ra quả trứng!” Zorba reo lên.

“Giờ th́ anh đă tự trói ḿnh vào một t́nh thế phức tạp rồi đấy, caro amico. Một t́nh thế thực sự phức tạp!” Đại Tá lên tiếng nhắc nhở.

“Tôi phải làm ǵ với một quả trứng bây giờ?” Zorba thống thiết hỏi.

“Bella, bella1!” Có nhiều thứ để làm với một quả trứng lắm. Món ốp lết chẳng hạn,” Secretariomau mắn gợi ư.

“Ôi trời, đúng. Chỉ cần liếc qua từ điển bách khoa là chúng ta sẽ biết làm thế nào để có được món ốp lết khiến người ta thèm chảy dăi. Cái đó có ở trong tập mười lăm, vần O.” Einstein cả quyết nói.

“Không được nói thêm một từ nào về món ốp lết nữa! Zorba đă hứa với cô hải âu tội nghiệp kia rằng sẽ chăm lo cho quả trứng và đứa con của cô ấy. Anh ấy đă thề nguyện bằng danh dự, và lời thề của một con mèo ở cảng cũng là lời thề của mọi con mèo khác, v́ thế không ai được rờ tới quả trứng!” Đại Tá trịnh trọng tuyên bố.

“Nhưng tôi không biết chăm sóc một quả trứng như thế nào cả! Tôi chưa từng làm việc ấy bao giờ,” Zorba ngao lên vô vọng.

Sáu con mắt hướng về phía Einstein. May ra trong cái từ-điển-bách-khoa trứ danh của nó có thứ ǵ đó liên quan tới chủ đề này.

“Tôi phải ngâm cứu tập hai mươi, chữ T. Các bạn có thể chắc chắn rằng chúng ta sẽ t́m thấy mọi thứ cần thiết để hiểu rơ quả trứng, nhưng ngay lúc này, tôi đề nghị phải có hơi ấm, hơi ấm cơ thể, thật nhiều hơi ấm cơ thể.” Einstein lên giọng thuyết giáo, dạy đời.

“Có nghĩa là anh phải nằm ra đó, nhưng đừng có làm món ốp lết,” Secretario nói thêm.

“Chính là điều tôi định đề xuất đấy. Zorba, anh ở lại đây coi chừng quả trứng và chúng tôi sẽ tháp tùng Einstein đi xem cái tư điền… cái trụ đèn bách hoa… trời ạ, anh biết tôi định đề cập tới cái ǵ rồi đấy. Chúng tôi sẽ quay lại đây tối nay với thông tin hữu ích, và chúng ta sẽ cùng chôn cô hải âu đáng thương này,” Đại Tá sắp xếp công việc trước khi nhảy vọt lên mái nhà.

Einstein và Secretario theo chân nó. Zorba bị bỏ lại ở ban công với quả trứng và cô hải âu đă chết. Rất khẽ khàng, nó nằm xuống và khều quả trứng lại gần bụng. Nó thấy thật kỳ cục. Nó nghĩ tới chuyện ḿnh sẽ bị chọc ghẹo ra sao nếu hai con mèo vô lại vừa chạm mặt lúc sáng trông thấy nó lúc này.

Nhưng lời hứa vẫn là lời hứa, và v́ thế, được sưởi ấm dưới ánh mặt trời, nó ngủ thiếp đi với quả trứng lốm đốm xanh kề ngay bên cái bụng to tṛn, mập ú, đen tuyền.


1. Bella: tiếng Ư, nghĩa là “tuyệt”

hoatigon208410 16-06-11 01:39 PM

9. Một đêm buồn



Dưới ánh trăng đêm, Secretario, Eistein, Đại Tá và Zorba đào một cái hố dưới gốc cây dẻ. Một lúc trước đó, hết sức trông chừng để không bị con người nào trông thấy, chúng đă tha cô hải âu từ ban công xuống sân trong. Rất nhanh chóng chúng lăn thân thể cô hải âu xuống dưới cái hố và phủ đất lên.

Rồi Đại Tá gửi tới cô lời ca thán trịnh trọng:

“Huynh đệ mèo chúng tôi, trong đêm trăng ngần này, phải cất lời vĩnh biệt những ǵ c̣n lại của quư cô hải âu bất hạnh mà chúng tôi c̣n chưa kịp biết tên. Tất cả những ǵ chúng tôi biết, nhờ tri thức của người anh em Einstein, là cô thuộc loạ Ngân Âu, và có lẽ cô đă bay tới đây từ một miền xa xôi, nơi những con sông đổ về với biển. Chúng tôi chỉ biết chút ít về cô, nhưng điều quan trọng là cô đă giă từ cuộc đời khi vừa t́m tới được ban công nhà Zorba - anh ấy là một phần chúng tôi, tất nhiên rồi - và rằng cô đă trao trọn niềm tin vào anh ấy. Zorba đă hứa sẽ chăm lo cho quả trứng cô sinh ra trước khi nhắm
mắt, cho con chim non sẽ được sinh ra từ nó, và sau đó - điều khó khăn nhất trong tất cả, thưa các huynh đệ - anh ấy đă hứa sẽ dạy con chim non biết bay.”

“Bay. Tập hai, vần B.” Chúng nó nghe thấy Einstein lầm bầm qua mớ râu dài.

“Đấy chính xác là những ǵ ngài Đại Tố định nói. Anh cướp lời ở ngay cửa miệng ngài rồi,”

Secretario nhỏ nhẻ mỉa mai.

“… những lời hứa thật khó hoàn thành,” Đại Tá tiếp tục, lờ Secretario đi. “Nhưng chúng ta biết rằng một con mèo ở cảng biển luôn giữ trọn lời hứa. Và để điều đó trở thành sự thật, tôi phân công người anh em Zorba đây ở lại cùng quả trứng cho tới khi chim non ra đời, và người anh em Einstein sẽ tra cứu cuốn… từ điền… từ biến bách hoá.. ờ , mấy cuốn sách của anh ấy, xem liệu anh có thể học được ǵ về nghệ thuật bay lượn. Và giờ đây, chúng tôi cất lên lời từ giă cuối cùng với cô hải âu, kẻ đă trở thành nạn nhân bởi thảm hoạ do con người gây ra. Hăy để chúng tôi vươn cổ về phía mặt trăng, cùng rên
xiết bài ca vĩnh biệt mà mọi con mèo ở cảng đều hay biết.”

Và ở đó, dưới gốc cây dẻ già, bốn con mèo bắt đầu cất vang lên bài kinh cầu buồn thảm. Âm thanh ngoao ngoao của chúng nhanh chóng được nhân thêm bởi tiếng những con mèo hàng xóm, và rồi tới những con mèo ở bên kia ḍng sông, hợp xướng thê thiết của bầy mèo con hoà chung cùng tiếng tru của lũ chó, tiếng chiêm chiếp thê lương của những con chim hoàng yến trong lồng, của bầy sẻ trong tổ, tiếng ộp oạp buồn bă của những con ếch, và thậm chí cả tiếng rít thủng màng nhĩ của con đười ươi Matthew.

Ánh đèn sáng lên trong mọi căn nhà ở Hamburg, và đêm đó, tất cả cư đân của thành phố phân vân tự hỏi họ đă làm nên nỗi ǵ mà khiến bọn thú trở nên đau buồn làm vậy.

...

hoatigon208410 16-06-11 01:43 PM

Phần 2


1. Con mèo ấp trứng




Con mèo mun to đùng, mập ú dành nhiều ngày để nằm cạnh quả trứng, trông chừng nó, nhẹ nhàng khều quả trứng trở lại bằng bàn chân mềm bông không lộ vuốt mỗi khi những cử động vô t́nh của cơ thể đẩy nó ra xa độ một hoặc hai phân. Trong những ngày khó chịu dài lê thê đó, thỉnh thoảng Zorba thấy thật uổng phí th́ giờ, bởi có vẻ như nó đang phải chăm lo cho một vật thể không sức sống, một ḥn đá dễ nứt vỡ, cho dù có màu trắng lốm đốm xanh.

Có một lần, cơ thể nó bị chuột rút do không được vận động - bởi v́, theo như mệnh lệnh của Đại Tá, nó chỉ dám rời quả trứng để đi ăn và đi vệ sinh chỗ cái thùng - nó thấy thèm được biết liệu con chim con có lớn lên chút nào bên trong lớp vỏ can-xi cứng hay không. Nó ghé sát một tai vào quả trứng, rồi tới tai kia, nhưng nó không nghe thấy bất cứ âm thanh nào. Nó cũng chẳng may mắn hơn khi cố gắng nh́n xuyên vào bên trong quả trứng bằng cách đặt nó ra trước ánh sáng. Lớp vỏ trắng đốm xanh thật là dày và hoàn toàn không để ánh sáng chiếu qua.

Đại Tá, Secretario và Einstein tới thăm Zorba hàng đêm, chúng thường xuyên kiểm tra quả trứng xem liệu cái Đại Tá gọi là “chu tŕnh mong muốn” có diễn ra hay không, nhưng ngay khi chúng nhận ra quả trứng trông y nguyên như hôm đầu tiên th́ chủ đề tṛ chuyện của cả bọn thay đổi.

Eistein không ngừng lải nhải than phiền về chuyện bộ tự điển bách khoa của nó không cho biết chính xác về thời gian ấp trứng; chi tiết tạm chấp nhận được nhất có thể lấy ra từ những cuốn sách dày cộp nói rằng giai đoạn đó có thể kéo dài từ mười bảy tới ba mươi ngày, tùy theo đặc tính loài của chim mẹ.

Ngồi ấp trứng thực không dễ dàng chút nào với con mèo mun to đùng mập ú. Nó không thể nào quên được cái bữa người bạn của gia đ́nh chủ vốn nhận trách nhiệm trông nom nó chợt nghĩ rằng sàn nhà cần được lau dọn và quyết định bật máy hút bụi lên.

Mọi buổi sáng, suốt thời gian người bạn ở đó, Zorba phải giấu quả trứng sau mấy chậu hoa cảnh trên ban công để ra quấn quít với con người tốt bụng đă dọn rửa cái thùng vệ sinh của nó và cho nó thức ăn. Nó meo meo đầy biết ơn, cọ cọ ḿnh quanh chân người ấy để rồi ông ta đi về không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng Zorba mới ngoan thật là ngoan. Nhưng sáng hôm đó, sau khi quan sát cái máy hút bụi rè rè chạy quanh pḥng khách và pḥng ngủ, nó nghe người đó nói: “Và giờ tới lượt ban công. Bụi chắc đóng tảng quanh mấy chậu hoa đó mất rồi!”

Khi người bạn nghe thấy tiếng xoảng của cái bát đựng hoa quả vỡ tan tành, ông ta chạy về phía bếp và hét tướng lên ngay ở cửa: “Mày mắc chứng ǵ thế, Zorba? Nh́n xem mày vừa làm ǵ này! Biến ra khỏi đây ngay, con mèo điên này! Mày mà bị mảnh thủy tinh đâm vào chân nữa là xong!”

Thật đúng là một sự sỉ nhục quá đáng! Zorba rón rén ḅ khỏi bếp, đuôi cụp giữa hai chân, giả vờ như đang xấu hổ chết đi được, rồi phi thẳng với tốc độ tối đa ra ban công. Thật không dễ ǵ mà lăn được quả trứng từ mấy chậu hoa vào một trong các pḥng ngủ nhưng đă thành công, rồi nó đợi ở đó cho tới khi người bạn dọn dẹp xong mọi thứ và ra về.
Zorba đang gà gật khi màn đêm buông xuống và ngày thứ hai mươi, v́ thế nó không nhận ra rằng quả trứng nhúc nhích, thật chậm, nhưng đang nhúc nhích, như thể đang cố lăn trên mặt sàn.

Một cú nhói ở bụng khiến Zorba tỉnh giấc. Nó mở mắt và hết sức lo ngại khi nh́n thấy một chóp nhỏ màu vàng cứ xuất hiện rồi biến mất qua vết nức của quả trứng.

Nó kẹp vững quả trứng bằng hai chân sau, và nhờ thế có thể nh́n thấy con chim non mổ lấy mổ để tới khi cái lỗ đủ rộng cho một cái đầu trắng, bé xíu ướt nhẹp ra khỏi vỏ trứng.
“Má!” con chim non chiếp chiếp gọi.

Zorba không biết phải phản ứng ra sao. Nó biết là lông của ḿnh đen óng như than, nhưng dường như nỗi xúc động và xấu hổ đă khiến nó ngượng hồng lựng cả người.

hoatigon208410 16-06-11 01:47 PM

2. Làm mẹ khó lắm chỨ chẳng đùa



“Má! Má!” con chim non, giờ đă chui hẳn ra khỏi vỏ, chiêm chiếp một lần nữa. Nó trắng như sữa, nửa thân ḿnh được phủ một lớp lông vũ mềm, ngắn cũn, lởm chởm. Nó loạng choạng bước vài bước và ngă bịch vào bụng Zorba.

“Má! Con đói!” nó liếp chiếp, mổ lên lớp lông của Zorba.

Biết cho nó ăn cái ǵ bây giờ? Einstein chưa bao giờ hướng dẫn Zorba cho chim ăn. Nó biết là bọn hải âu ăn cá, nhưng nó biết đi đâu để kiếm được một mẩu cá bây giờ? Zorba chạy vào bếp, và lăn trở ra một quả táo.

Con hải âu non đứng dậy trên hai cái cẳng run rẩy và tấn công quả táo. Cái mỏ màu vàng nhỏ xíu gơ bép bép lên lớp vỏ trái cây dày cui như cao su, bị nảy ngược, con hải âu non bắn văng ra sau và ngả đập lưng xuống đất.

“Con đói!” nó kêu chép chép giận dữ. “Má! Con đói!”

Zorba tha con chim vào trong bếp và cố giúp nó mổ vào củ khoai tây, rồi một chút thức ăn của mèo - từ ngày gia đ́nh nhà chủ đi vắng. Nó không có nhiều thứ để lựa chọn cho lắm! - nó thấy hối hận v́ đă liếm sạch bát thức ăn trước khi con hải âu nở. Tất cả đều vô ích. Cái mỏ bé xíu quá mềm và bị uốn cong khi con hải âu cố mổ củ khoai tây hay thức ăn. Rồi, khi đă đi đến cực điểm vô vọng, Zorba chợt nhớ ra rằng con hải âu non này thuộc loài chim, và chim th́ ăn côn trùng.

Bởi thế, Zorba chạy vù ra ban công và kiên nhẫn đợi bọn ruồi đậu xuống trong tầm vuốt. Cũng chẳng lâu la ǵ để bắt được một con ruồi, và nó mớm cho con hải âu non đang đói ngấu.

Con hải âu non mổ lấy ruồi, ngậm nó vào mỏ và nhắm tịt mắt lại, nuốt chửng. “Ngon quá xá, Má ơi. Con muốn ăn nữa!” nó chiếp chiếp vui sướng.

Zorba chạy ra ngoài lần nữa và bắt đầu nhảy tới nhảy lui trên ban công. Nó đă tóm được tổng cộng năm con ruồi và một con nhện, th́ từ mái nhà của căn hộ bên kia sân, vọng tới tiếng hai con mèo cù bất cù bơ mà nó vừa dằn mặt hôm trước.

“Trông ḱa, cu. Thằng béo đang tập thể dục nhịp điệu ḱa. Người ngợm như thế kia, chắc chắn nó là một vũ công rồi,” một con nói.

“Ô meo, tao th́ nghĩ nó đang tập aerobic cơ đấy. Trông nó giống một cái b́nh tuyệt đẹp. Thật duyên dáng. Thật phong cách. Này, cục mỡ, người ta đang chăm chút mày để thi hoa hậu hả?” Con thứ hai cũng nheo nhéo.Cả hai con cùng cười hô hố, an toàn ở phía bên kia sân.

Zorba rất sẵng ḷng cho chúng hưởng tí hương vị của mấy cái vuốt sắc như dao cạo,
nhưng chúng lại ở xa quá. Bởi vậy, nó quay lại với con hải âu háu đói cùng mẻ côn trùng vừa bắt.

Con hải âu non ngấu nghiến nuốt năm con ruồi, nhưng nhất quyết không động tới con nhện. No nê, nó ợ một cái rồi xích người lại sát bụng của Zorba. “Má, con buồn ngủ rồi!” nó khẽ liếp nhiếp.

“Nghe này, tớ xin lỗi về chuyện này, nhưng tớ không phải là mẹ của đằng ấy!” Zorba khẽ nói.

“Tất nhiên Má là má của con. Và là một bà má rất xịn,” nó đáp, và nhắm mắt lại.

Khi Đại Tá, Secretario và Einstein xuất hiện, chúng thấy con hải âu non đang ngủ ngay cạnh Zorba.

“Chúc mừng. Thật là một con hải âu non xinh đẹp. Nó nặng bao nhiêu thế?” Einstein hỏi.

“Hỏi han kiểu ǵ thế? Tôi có phải mẹ nó đâu!” Zorba cáu kỉnh.

“Nhưng đó là câu mà người ta thường hỏi trong những dịp này. Đừng có hiểu lầm ư tôi.

Thực tế th́ nó thật là một con hải âu xinh đẹp!” Đại Tá nói.

“Thật khủng khiếp! Quá khủng khiếp!” Einstein rên lên, nhồi cả hai chân trước vào miệng.

“Liệu chúng tôi có thể biết cái ǵ khủng khiếp đến thế không?” Đại Tá thắc mắc.

“Con chim hải âu này không có ǵ để ăn cả. Điều đó thật là khủng khiếp! Khủng khiếp làm sao!”

“Anh nói đúng,” Zorba đồng ư. “Tôi đă phải kiếm cho nó mấy con ruồi, và tôi nghĩ chắc c̣n lâu nó mới lại thấy muốn ăn nữa.”

“Secretario, anh c̣n đợi ǵ nữa?” Đại Tá giậm chân nôn nóng.

“Scusi, xi-nho, nhưng tôi không hiểu ư ngài.”

Chạy về nhà hàng và mang lại đây một con cá ṃi ngay,” Đại Tá ra lệnh.

“Ơ, sao lại là tôi? Tại sao Secretario luôn luôn là con mèo chạy vặt, hở? ‘Nhúng đuôi anh vào cái thứ benzena đó, Secretario. Chạy đi kiếm cá ṃi đi, Secretario’. Sao lúc nào cũng là Secretario này?”

“Bởi v́ tối nay, thưa quư ngài tốt bụng, chúng ta sẽ được xơi món mực Romana,” Đại Tá đáp lời.

Đó có là lư do tốt chăng?”

“Cái đuôi khốn khổ của tôi vẫn c̣n bốc thứ mùi benzena… Mamma Mia! Có phải ngài vừa nói là mực Romana?” Secretario hỏi trước khi chạy vù đi.

“Má, đám kia là… con ǵ thế?” Con hải âu non lép chép, chĩa cái mỏ về phía bọn mèo.

“Má! Nó gọi anh là Má ḱa! Ngọt ngào khủng khiếp,” Einstein thốt lên trước khi bộ mặt của Zorba kịp ném cho nó lời khuyên rằng nên suy nghĩ về chuyện đó kỹ hơn.

“Ờ, caro amico, anh đă làm trọn lời hứa thứ nhất, anh đang thực hiện lời hứa thứ hai, và giờ chỉ c̣n lại lời hứa thứ ba,” Đại Tá tuyên bố.

Phải. Cái dễ nhất. Dạy cho nó bay,” Zorba mỉa mai nói.

“Chúng ta sẽ làm được vụ đó thôi. Tôi đang tra trong từ điển bách khoa. Nhưng việc nghiên cứu cũng mất th́ giờ lắm,” Einstein an ủi nó.

“Má! Con đói!” con hải âu cắt ngang.

hoatigon208410 16-06-11 01:48 PM

3. Hiểm nguy phía trước




Mọi chuyện phức tạp bắt đầu vào ngày thứ hai sau khi chim con nở. Zorba phải dùng tới biện pháp dứt khoát hơn để người bạn của gia đ́nh không phát hiện ra con hải âu non của nó, ngay khi nghe thấy tiếng cửa mở, nó lật ngược một chậu hoa rỗng, úp lên con chim non rồi ngồi lên đó. Thật may là ông bạn không đi ra ban công và không thể nghe được tiếng chiêm chiếp phản ứng của con chim khi ông ta ở trong bếp.

Người bạn, như thường lệ, dọn rửa cái thùng của nó, mở cái hộp đựng thức ăn và trước khi rời đi, ông ngó ra ban công.

“Tao hy vọng mày không bị ốm, Zorba. Lần đầu tiên tao thấy mày không chạy hoắng lên khi tao lấy thức ăn cho mày đấy nhé. Mày làm cái tṛ ǵ mà ngồi lên cái chậu hoa thế kia? Mày tưởng là mày đang giấu thứ ǵ đó à. Được rồi, con mèo điên này, hẹn gặp lại ngày mai nhé.”

Ngộ nhỡ ông ta nh́n xuống bên dưới cái chậu th́ sao nhỉ? Chỉ cần nghĩ tới chuyện đó thôi là dạ dày Zorba đă muốn trộn nháo nhào, và nó phải chạy tới cái thùng vệ sinh.

Nó đứng ở đó, đuôi ngỏng lên trời, tận hưởng cảm giác xả hơi đă đời và nghĩ về lời nói của con người.

“Con mèo điên”. Đó là thứ mà ông ta đă gọi nó. “Con mèo điên.”

Có thể ông ta đúng, bởi lẽ hành động thiết thực nhất là để cho ông ta nh́n thấy con hải âu non.
Người bạn của gia đ́nh chủ sẽ tưởng rằng Zorba đang định xơi tái con chim, ông ta sẽ đưa nó đi rồi nuôi đến lớn. Nhưng Zorba đă giấu con chim dưới một cái chậu hoa. Có phải nó điên thật rồi không?

Không. Không hề. Zorba đă tuân thủ thật nghiêm ngặt những luật lệ danh giá của cộng đồng mèo ở cảng. Nó đă hứa với cô hải âu trong giây phút lâm chung rằng sẽ dạy con hải âu non biết bay, và nó sẽ làm thế? Nó chẳng biết phải dạy dỗ bằng cách nào nhưng nó sẽ làm.

Zorba đang thu dọn chu đáo cái thùng vệ sinh th́ tiếng chiếp chiếp thất thanh của hải âu non khiến nó phải phóng vù ra ban công.

Cảnh tượng trước mắt khiến máu nó đông cứng lại.

Hai con mèo hoang đang nằm sà ngay trước hải âu non, đuôi giần giật với vẻ phấn khích, một con c̣n dí móng vào đuôi hải âu, dúi con chim xuống. May mắn thay hai con mèo khốn đó quay lưng lại nên chúng không trông thấy Zorba. Toàn thân Zorba căng cứng.

“Ai mà đoán nổi rằng chúng ta vớ được món điểm tâm béo bở thế này, phải không cu?

Con chim này nom y như bữa sáng của hoàng đế,” một con nheo nhéo nói.

“Má! Cứu con!” con chim la thảm thiết.

“Phần khoái khẩu của tao là cặp cánh. Cánh con này tuy gầy nhẳng, nhưng đùi nó trông cũng đầy đặn ngon lành đấy,” con mèo kia b́nh luận.

Zorba trườn tới. Nó bật x̣e mười cái vuốt trên hai chân trước, tóm lấy hai con mèo du đăng, dộng đầu chúng bôm bốp xuống nền ban công.

Hai con mèo cố gắng ngóc đầu dậy, nhưng mỗi lần làm thế, chúng lại xơi nguyên cái vuốt nhọn vào tai.

“Má! Chúng nó định ăn thịt con!” chim non chiêm chiếp mách.

“Ăn con của bà ư? Không, thưa bà. Không phải bọn em ạ,” một con mèo mếu máo, đầu nó đang dính bép vào nền ban công.

“Bọn em ăn chay, thưa bà. Ăn chay khắc khổ ấy chứ,” con c̣n lại lên tiếng thề thốt.

“Tao chả phải là bà biếc ǵ hết, đồ ngu,” Zorba rít, xách tai kéo đầu chúng lên để chúng thấy rơ mặt ḿnh.

Khi nhận ra nó, hai con mèo ăn cướp thấy lông ḿnh dựng đứng cả lên.

“Phải đấy, anh bạn. Anh có đứa con xinh lắm. Lớn lên nó thế nào cũng sẽ là một con mèo tuyệt đấy,” con thứ nhất cả quyết với Zorba.

“Xa tới cả dặm cũng nhận ra được ấy chứ. Đúng, thật là một con mèo xinh đẹp, phải rồi,” con thứ hai phụ họa.

“Nó không phải là mèo, bọn ngu này. Nó là một con hải âu non,” Zorba đính chính.

“Đấy, chính là thứ mà tôi thường xuyên nói với anh bạn đây. Ai cũng nên có một con hải âu con,” con mèo thứ nhất réo lên. “Phải thế không, anh bạn?”

Zorba quyết định hạ màn vở hài kịch, nhưng trước hết th́ phải tặng hai thằng đần món lưu niệm từ bộ móng của nó mới được. Nó dí mạnh chân trước, bộ vuốt xé rách một bên tai của hai thằng hèn kia. Gào la thảm thiết v́ đau đớn, chúng vọt chạy như tên bắn.
“Má của con thật là anh hùng!” con hải âu ríu rít nói.

Zorba nhận thấy rằng ban công không phải chốn an toàn, nhưng nó cũng không thể đưa con chim vào trong nhà v́ có thể làm bẩn tấm thảm và thế nào rồi người bạn của gia đ́nh cũng phát hiện ra.

“Đi nào, chúng ta dạo quanh một chút nhé,” Zorba thầm th́ rồi nhẹ nhàng tha con chim giữa hai hàm răng.

.....

hoatigon208410 16-06-11 01:54 PM

4. Họa vô đơn chí



Tập trung tại hiệu tạp hóa Harry, bọn mèo thống nhất rằng con hải âu non sẽ không thể ở lại căn hộ nhà Zorba thêm nữa. Có quá nhiều rủi ro, và thậm chí c̣n nghiêm trọng hơn mối đe dọa từ hai con mèo hoang, đó là từ con người.

“Con người, không may thay, lại rất khó lường. Thường th́ với những ư định tốt nhất họ lại phá hoại nhiều nhất,” Đại Tá lên giọng.

“Ông nói đúng. Ví dụ, hăy nh́n ông Harry xem. Ông ấy là một con người tốt, tốt trọn con tim, ông ấy khoái bọn đười ươi và hiểu rằng Matthew cực kỳ thích món bia của ông. Thế là, đùng một phát, ông ấy cứ thế dúi bia cho nó mỗi khi nó khát,” Einstein nói. “Giờ th́ Matthew tội nghiệp của chúng ta là một gă nghiện ngập. Nó chẳng c̣n biết xấu hổ là ǵ, rồi mỗi lần uống say, nó lại lè nhè mấy bài hát tục tĩu. Khủng khiếp!”
“Và khi nào họ mới hiểu được việc họ đang làm? Hăy nghĩ về cô hải âu tuyệt vời kia. Cô ấy chết v́ họ điên cuồng, làm ô nhiễm đại dương với rác rưởi của họ,” Secretario thêm vào

Sau một cuộc thảo luận ngắn gọn, cả đám đồng ư rằng Zorba và con hải âu non sẽ sống trong hiệu tạp hóa cho tới khi nó học được cách bay. Zorba sẽ quay lại căn hộ mỗi sáng để con người không lo lắng v́ nó, rồi sau đó sẽ quay lại cửa hiệu chăm nom con hải âu.

“Ư tưởng về chuyện cho bambino1 này một cái tên cũng không tệ lắm nhỉ,” Secretario đề nghị.

“Đó chính xác là điều ta đang định đề xuất. Ta rất không bằng ḷng với cái tṛ ngắt lời của anh!”
Đại Tá càu nhàu.

“Tôi đồng ư,” Zorba nói. “Nó cần có một cái tên, nhưng trước tiên, chúng ta phải biết nó là trống hay mái đă.”

Nó chưa kịp nói rơ ư th́ Einstein đă lon ton chạy tới tra cứu tập từ điển bách khoa có chữ G và lật nhanh tới trang có từ “giới tính.”

Thật không may, cuốn từ điển bách khoa không đả động ǵ đến chuyện phân biệt giới tính của một con hải âu non.

“Anh phải thừa nhận là mớ từ điển bách khoa nhà anh chẳng giúp bọn ḿnh được mấy việc,” Zorba phàn nàn

“Tôi không chấp nhận bất cứ lời chỉ trích nào về giá trị sử dụng của bộ bách khoa toàn thư. Mọi tri thức đều nằm trong những cuốn sách này cả đấy,” Einstein quay lại, cáu kỉnh nói

“Thế c̣n Bốn Biển th́ sao! Đó là một con mèo đi biển cự phách. Ông ấy chính là gatto có thể nói cho chúng ta biết bambino đây là trống hay mái,” Secretario cất tiếng.

“Chính là thứ mà…! Này, ta cấm anh không bao giờ được phép…!” Đại Tá lắp bắp.

V́ bọn mèo thảo luận hăng quá, con hải âu non bắt đầu lượn quanh đám chim nhồi bông. Ở đó có cả chim két đen, vẹt, tu căng, công, đại bàng và chim cắt, con hải âu non nh́n chúng khiếp sợ. Đột nhiên một con vật với cặp mắt đỏ khè đứng ngáng đường nó, một con vật rơ ràng không phải đồ nhồi bông. “Má! Cứu con!” Con hải âu non gào lên thất thanh.

Kẻ đầu tiên phi tới chỗ nó là Zorba, vừa kịp lúc, chỉ nháy mắt nữa thôi con chuột đă vồ tới ức của con chim non rồi

Khi thấy Zorba, con chuột chuồn thẳng vào khe nứt trên tường

“Nó muốn ăn thịt con má ơi!” Con hải âu non thổn thức liếp chiếp, rúc sát vào Zorba

“Chúng ta quên bẵng mất mối nguy này. Tôi nghĩ chúng ta phải có một bữa nói chuyện phải quấy với bọn chuột thôi,” Zorba nói.




[1 Bambino: Tiếng Ư, nghĩa là “đứa trẻ”]

..........

hoatigon208410 16-06-11 01:57 PM

.......

“Ta đồng ư. Nhưng đừng nhượng bộ bọn nhăi con đó quá,” Đại Tá nhắc nhở.

Zorba chui vào khe nứt trên tường. Bên trong tối đen như mực, tuy nhiên nó vẫn nh́n thấy cặp mắt đỏ ḷe của con chuột.

“Tao muốn gặp đầu đảng của tụi mày,” Zorba nói giọng dứt khoát.

“Tao là đầu đảng đây,” nó nghe thấy tiếng trả lời trong bóng tối.

“Nếu mày là đầu đảng, th́ nhà chuột chúng mày c̣n hèn mạt hơn cả loài gián. Bảo với thằng đầu đảng của mày tao muốn gặp nó ngay!” Zorba nhấn mạnh.

Zorba nghe thấy tiếng chuột lục xục xa dần, tiếng nó trượt theo một đường ống nước, móng vuốt cạo, soàn sọat. Vài phút sau, Zorba lại thấy cặp mắt đỏ ḷe của nó giữa bóng tối.

“Đầu đảng của bọn tao sẽ gặp mày trong hầm vỏ hàu, có một lối đi đằng sau ngực tượng tên cướp biển,” con chuột rít lên.

Zorba đi xuống căn pḥng vỏ hàu. Nó t́m ở phía sau ngực tên cướp biển và nh́n thấy cái lỗ trên tường, đủ lớn để nó chui được qua. Nó gạt đám mạng nhện sang bên và trườn vào vương quốc của bọn chuột. Chỗ đó bốc mùi nhớp nháp và rác rưởi.

“Đi theo đường ống nước,” con chuột mà nó không thể nh́n thấy lại lên tiếng.

Nó y lời. Càng ḅ vào sâu, bụi bẩn và rác rưởi lại càng bám dày lên lông nó.

Nó lần ṃ trong bóng tối cho tới khi tới được đoạn cống được chiếu sáng lờ mờ bởi một tia sáng ban ngày mỏng manh. Zorba đoán rằng hẳn nó đang ở phía dưới con phố, và ánh sáng nó nh́n thấy được chiếu xuyên qua một cái lỗ trên nắp cống. Chỗ đó bốc mùi phát khiếp, nhưng đủ rộng để Zorba có thể đứng thẳng trên cả bốn chân. Một rănh nước hôi thối chạy ngang giữa pḥng. Rồi nó nh́n thấy đầu đảng của bọn chuột, một con vật to tướng, màu xám đen, toàn thân đầy những sẹo là sẹo, đang lấy vuốt gẩy lên gẩy xuống cái đuôi vằn.

“Ô la la. Nh́n xem ai tới thăm này! Một lăo béo ục!” Con chuộc đầu đảng rít lên.

“Béo ục! Béo ục” hàng tá chuột mà Zorba chỉ có thể nhận thấy qua những đôi mắt đỏ ké nheo nhéo nhắc lại.

“Ta muốn các ngươi để cho con chim non được yên,” Zorba hít hơi rồi nói.

“Vậy đúng là bọn mèo các ngươi đang nuôi một con chim non. Ta biết mà! Chúng ta nghe những lời đồn thổi khắp các cống rănh. Bọn đó nói rằng nó bé xíu thơm ngon lắm. Thơm ngon cực ḱ. Hí hí hí,” con chuột đầu đảng lít rít.

“Thơm ngon cực ḱ! Hí hí hí,” những con khác ḥa theo.

“Con hải âu non đó được loài mèo bảo vệ,” Zorba nói, không chút hăm dọa.

“Để rồi khi nó đủ lớn các ngươi sẽ xơi nó? Không thèm mời tới chúng ta. Bọn chuyên liếm láp ngón chân nhà các ngươi ích kỉ lắm,” con chuột kia lớn tiếng buộc tội.

“Ích kỉ! Ích kỉ lắm!” bọn chuột kia nhái lại.

“Các người biết rơ rồi đấy, bọn chuột bị ta tiêu diệt c̣n nhiều hơn lông trên người ta. Nếu có bất cứ chuyện ǵ xảy ra với con hải âu non, th́ giờ của các ngươi đă điểm rồi đấy,” Zorba thong thả nói.

“Nghe đây, con mèo béo kia, ngươi đă nghĩ tới việc làm thế nào để thoát khỏi chỗ này chưa?

Bọn ta có thể biến ngươi thành món mèo xay ngon tuyệt đấy,” con chuột đe dọa.

“Mèo xay! Mèo xay!” Bọn chuột gào theo.

Đột nhiên Zorba nhảy tới vồ con chuột đầu đảng. Nó đáp xuống ngay trên lưng, đè đầu con chuột xuống đất bằng bộ vuốt của ḿnh.

“Mày sắp sửa mất toi đôi mắt rồi đấy. Có thể đám lâu la sẽ biến tao thành mèo xay, nhưng mày cũng mù tiệt luôn. Nào, bây giờ th́ mày sẽ để cho con hải âu non được yên chứ?”

“Cư xử của ngươi mới gây sốc làm sao. Được rồi,” con chuột chấp thuận. “Không mèo xay, không chim hải âu non. Mọi thứ dưới cống đều có thể thương lượng.”

“Vậy th́ chúng ta sẽ thương lượng. Ngươi muốn ta đáp lại ǵ cho việc giữ mạng con hải âu non?” Zorba hỏi.

“Giải phóng con đường qua khoảng sân trong. Thằng mèo Đại Tá ra lệnh chặn đứng con đường bọn ta ra chợ. Chúng ta muốn giải phóng lối đi qua sân trong,” con chuột chin chít nói.

“Đồng ư. Chúng mày có thể đi ngang qua sân trong, nhưng vào ban đêm, khi con người không trông thấy chúng mày. Loài mèo chúng ta c̣n phải giữ thanh danh nữa.” Zorba thả con chuột ra.

Nó đi giật lùi ra, không rời mắt khỏi con chuột đầu đảng và hàng tá đôi mắt đỏ lừ đang nh́n nó đầy căm ghét.

...........

hoatigon208410 16-06-11 02:05 PM

5. Hải âu trống hay hải âu mái?



Phải mất ba ngày chúng mới nói chuyện được với Bốn Biển, bạn của chúng, một con mèo từng ra khơi xa, một con mèo viễn dương đích thực.

Bốn Biển là con vật may mắn của Hannes Đệ Nhị, một con thuyền lớn quyền uy chịu trách nhiệm giữ cho cửa sông Elbe thông thoáng và không c̣n bùn cát hay rác rưởi. Thủy thủ đoàn trên Hannes Đệ Nhị hết sức coi trọng Bốn biển, con mèo màu mật ong có đôi mắt xanh biếc, kẻ được coi là bạn đồng hành của họ trong công việc nạo vét ḷng sông gian khó.

Vào những ngày mưa băo, Bốn Biển diện một bộ áo mưa vải dầu không thấm nước, được đo cắt theo đúng kích cỡ của nó, y như bộ áo mưa mà thủy thủ đoàn mặc, và nó đứng trên boong tàu cùng chịu cảnh khắc nghiệt với những thủy thù kiên cường đă quá quen thuộc với phong ba, băo tố. Hannes Đệ Nhị c̣n lănh trách nhiệm nạo vét các cảng biển ở Rotterdam, Antwerp, Copenhaghen và Bốn Biển có thể kể hàng đống chuyện thú vị về những hành tŕnh xa xôi đó. Ồ vâng. Nó đúng là một con mèo viễn dương đích thực.

“Huây huây!” Bốn Biển hét vang khi nó bước vào cửa tiệm tạp hóa.

Con đười ươi chớp mắt mỉa mai khi quan sát con mèo tiến lại, nhảy nhót bên này, bên nọ như một thủy thủ và phớt lờ vị thế tôn quư đầy quan trọng của nó là người bán vé tham quan khu trưng bày.

“Nếu mày không biết chào hỏi cho ra đường ra lối th́ ít nhất cũng trả tiền vé vào cửa, đồ khố rách kia,” Matthew gầm gừ.

“Đồ bù nh́n cánh tả! Mày vừa gọi tao là khố rách hử? Thằng soát vé xấu xí lắm mồm kia! Mày nên biết, toàn bộ đám rận rệp khắp các cảng biển trên thế giới đă từng gặm lớp da này của tao. Ngày nào đó tao sẽ kể cho mày nghe chuyện một con đỉa đói đă cắm phập vào lưng tao và uống máu no nê tới mức nó trở nên nặng trịch và tao không vác nổi nó nữa. Rồi tao sẽ kể cho mày nghe chuyện mấy con bọ chét trên đảo Cacatúa phải đốt bảy người th́ mới đủ cho bữa cocktail của chúng. Nhấc mỏ neo lên, đồ khỉ, đừng có chắn mũi tàu của tao!” Bốn Biển ra lệnh, và cứ thế đi thẳng, không để cho con đười ươi kịp
phản ứng câu nào.

Khi đă tới căn pḥng chứa sách, nó dừng lại ở ngưỡng cửa và lên tiếng chào bọn mèo đang tụ tập ở đó.

“Trào!” – Bốn Biển tự lên tiếng. Nó thích được nói “xin chào” bằng chất giọng khàn khó nghe nhưng ngọt ngào của Hamburg.

“Thuyền trổng! Cuối cùng anh cũng tới. Anh không biết bọn ta cần anh đến thế nào đâu!”

Chúng mau mắn kể cho Bốn Biển nghe câu chuyện của cô hải âu và những lời hứa của Zorba, những lời hứa – chúng nhấn mạnh – mà tất cả bọn mèo phải giữ. Bốn Biển lắng nghe và gật gù rất trang trọng.

“Đồ mực mù thả bậy! Những điều kinh hoàng vẫn xảy xa trên biển. Th́nh thoàng tôi vẫn tự hỏi bọn người khùng hết cả rồi hay sao, họ đă biến đại dương thành một băi rác thải khổng lồ. Tôi vừa mới đến đây sau cuộc nạo vét cửa sông Elbe và các anh không tưởng tượng nổi số rác rưởi mà thủy triều đă đánh dạt vào đó đâu. Nhiều như khe trên mai rùa biển. Chúng tôi kéo lên bao nhiêu là thùng thuốc trừ sâu, lốp xe hỏng, và hàng tấn chai nhựa đáng ghê tởm mà con người đă vứt lại trên các băi tắm,” Bốn Biển kể, giọng bừng bừng tức giận.

“Khủng khiếp! Khủng khiếp! Nếu mọi chuyện cứ như thế này, th́ chẳng mấy chốc mà từ ‘ô nhiễm’, sẽ chiếm trọn tập mười lăm, vần O mất thôi,” Einstein thở dài, hết sức căng thẳng.

“Ừm, vậy lăo thủy thủ già này có thể làm ǵ cho con chim tội nghiệp đó?” Bốn Biển hỏi.

“Chỉ ḿnh anh, kẻ hiểu được những bí mật của biển khơi, mới có thể nói cho chúng tôi biết con hải âu non này là trống hay mái,” Đại Tá đáp.

Chúng dẫn Bốn Biển tới chỗ con hải âu non đang ngủ ngon lành sau bữa tiệc mực ống mà
Secretario – kẻ tuân theo lệnh của Đại Tá chịu trách nhiệm về thực phẩm – mang tới.

Bốn Biển khều một chân ra, xem xét đầu con chim, rồi vén mớ lông vũ bắt đầu trổ ra ở đuôi chim. Con hải âu non nh́n Zorba bằng đôi mắt đầy sợ hăi.

“Ôi, cái móng vuốt chẻ đôi cua kềnh!” Con mèo viễn dương thốt lên thích thú. “Cô hải âu mái hé nhỏ xinh đẹp này một ngày nào đó sẽ đẻ trứng nhiều như lông trên đuôi tôi vậy!”

Zorba liếm đầu con hải âu nhỏ. Nó thấy hối tiếc v́ quên không hỏi tên hải âu mẹ, bởi chim con, được số trời định tiếp tục cuộc hành tŕnh đă bị gián đoạn phũ phàng bởi tội lỗi của con người, sẽ thật hạnh phúc nếu được đặt theo tên mẹ ḿnh.

“Dựa theo việc con chim non đă may mắn được chúng ta bảo vệ,” Đại Tá công bố, “ta đề nghị đặt tên nó là Lucky.”

“Ôi, cái mang cá mú đầy khe! Giờ th́ đă có một cái tên tuyệt đẹp cho con,” Bốn Biển chúc mừng. “Ta chợt nhớ một chiếc du thuyền xinh đẹp mà ta từng thấy trên biển Baltic. Lucky cũng là tên của nó, và nó cũng được sơn phủ trắng bong y như cô hải âu bé bỏng này.”

“Tôi tin tưởng từ đáy ḷng ḿnh rằng bambina của chúng ta sẽ làm được những điều kỳ diệu..... 1 Ś , chắc chắn tên của cô bé phải có trong bộ sách to tướng kia, numero2 mười hai, vần L,” Secretario thêm vào.

Tất cả đều lấy làm hài ḷng với cái tên Đại Tá lựa chọn. Năm con mèo đứng thành ṿng tṛn quanh con hải âu nhỏ, rướn lên trên hai chân sau, rồi chụm các chân trước lại tạo thành một h́nh ṿm trên con hải âu, cùng nghi thức rửa tội theo cách những con mèo trên cảng.

“Chúng ta chào mừng con, Lucky, đứa con thân yêu của loài mèo sống trên cảng.”

“Huây! Huây! Huây!” Bốn Biển ngoao lên khoái chí.




1 Ś: Tiếng Ư, nghĩa là “Vâng”
2 Numero: Tiếng Ư, nghĩa là “số”


......

hoatigon208410 16-06-11 02:13 PM


6. Lucky, thực sự may mắn



Lucky lớn nhanh như thổi, được bao bọc trong sự yêu thương của bầy mèo. Sau một tháng sống trong tiệm tạp hóa của Harry, nó đă ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả với lớp lông vũ mềm màu bạc.

Khi có khách tới tham quan tiệm tạp hóa, Lucky theo hướng dẫn của Đại Tá, co ḿnh bất động giữa những con chim nhồi bông, giả vờ là một trong số chúng. Nhưng buổi chiều muộn, khi tiệm tạm hóa đóng cửa và lăo thủy thủ già đă đi nghỉ ngơi, nó lại lạch bạch với dáng vẻ của một con chim biển đi xuyên qua các căn pḥng, trầm trồ trước hàng ngh́n loại vật thế chứa trong đó. Trong khi đó, Einstein điên cuồng giở hết cuốn sách này sang cuốn sách khác, t́m ra phương pháp giúp Zorba dạy con chim mới trổ cánh tập bay.

“Việc tập bay bao gồm đẩy không khí ra phía trước và phía sau. À há! Giờ th́ chúng ta đă t́m ra yếu tố quan trọng,” Einstein ngâm nga, vẫn chúi mũi vào một cuốn sách.

“Tại sao con lại phải bay?” Lucky hỏi, hai cánh khép chặt vào thân.

“Bởi v́ con là hải âu, mà hải âu th́ phải bay,” Einstein đáp. “Với bác th́ thật là khủng khiếp, thật là khủng khiếp nếu con không nhận ra điều đó.”

“Nhưng con không thích bay. Và con cũng không thích làm hải âu,” Lucky căi lại. “ Con muốn làm mèo, mà mèo th́ không bay.”

Một buổi chiều, nó lạch bạch đi tới cửa ra vào tiệm tạp hóa, ở đó có vụ đụng độ không mấy dễ chịu với con đười ươi.

“Tao không muốn phân chim quanh đây đâu, con nhỏ ḷi dom kia” Matthew rít lên.

“Tại sao ngài lại gọi cháu thế, thưa ngài Khỉ?” Lucky rụt rè hỏi.

“Chim chóc con nào chẳng làm thế. Ị bậy khắp nơi. Mà mày th́ đích thị là một con chim,” con đười ươi nhắc lại với vẻ hách dịch.

“Ngài nhầm rồi. Cháu là một con mèo và rất biết giữ vệ sinh,” Lucky phản ứng, t́m kiếm sự đồng cảm của con khỉ không đuôi. “Cháu dùng chung cái thùng vệ sinh với bác Einstein.”

“Thật là nực cười! Bọn khố rách áo ôm làm tṛ ǵ mà thuyết phục được mày tin rằng mày là một trong số chúng thế? Mày ngó lại mày tí coi: mày có hai chân, và mèo th́ có bốn chân. Mày có lông vũ, c̣n chúng nó có lông mao. C̣n đuôi mày? Ơ? Đuôi mày đâu ấy nhỉ? Mày cũng dở hơi chả kém ǵ con mèo kia, bỏ cả đời cắm đầu vào mấy cuốn sách rồi kêu lên, ‘Khủng khiếp! Khủng khiếp!’ Đồ chim đần độn. Và mày có biết tại sao lũ đó lại tỏ ra tử tế như thế với mày không? Chúng nó đang đợi mày béo nẫn ra, rồi làm thịt mày thành bữa ăn ra tṛ. Chúng sẽ chén tuốt cả lông lẫn xương của mày!” con đười ươi
rít lên.

Chiều hôm đó, bọn mèo ngạc nhiên khi không thấy con hải âu xuất hiện để xơi món yêu thích – món mực ống mà Secretario chôm được từ bếp nhà hàng.

Cảm thấy lo lắng, bọn chúng chạy đi t́m con hải âu, Zorba t́m thấy nó buồn bă nằm rúc giữa đám thú nhồi bông. “Con có đói không, Lucky? Chúng ta có món mực đấy,” Zorba bảo nó.

Con hải âu không buồn hé mỏ.

“Con thấy trong người khó chịu à?” Zorba lo lắng hỏi, “Con có bị ốm không?”

“Má muốn con ăn để con béo tṛn, ngon lành phải không?” nó hỏi mà không ngẩng đầu lên.

“Không, để con lớn nhanh và mạnh khỏe.”

“Rồi khi con béo, má sẽ mời bọn chuột tới chén thịt con phải không?” nó léc quéc, đôi mắt đẫm nước.

“Con nghe ở đâu chuyện vớ vẩn như thế hả?” Zorba ngoao lên giận dữ.

Nước mắt lưng tṛng, Lucky thuật lại tất cả mọi thứ mà Matthew đă nói với nó. Zorba liếm khô nước mắt của Lucky và bỗng nhiên nhận ra ḿnh đang giảng giải cho con hải âu nhỏ, điều mà nó chưa từng làm trước đây:

“Con là một con hải âu. Gă đười ươi đúng ở điểm đó, nhưng chỉ điểm đó thôi. Tất cả chúng ta đều yêu con, Lucky. Và chúng ta yêu con bởi v́ con là một con hải âu. Một con hải âu xinh đẹp. Chúng ta chưa từng phủ nhận khi nghe con nói con là mèo, bởi điều đó an ủi chúng ta rằng con muốn giống chúng ta, nhưng con khác với chúng ta và chúng ta vui với sự khác biệt đó. Chúng ta đă không cứu được mẹ con, nhưng chúng ta có thể giúp con. Chúng ta đă bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời. chúng ta đă dành cho con sự chăm sóc mà không hề nghĩ tới việc biến con thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Chúng ta cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy, chúng ta là bạn con, là gia đ́nh của con, và chúng ta muốn con biết rằng nhờ con, chúng ta đă học được một điều đáng tự hào: chúng ta học được cách trân trọng ,quư mến và yêu thương một kẻ không giống chúng ta. Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống ḿnh, nhưng để yêu thương ai đó khác ḿnh thực sự rất khó khăn, và con đă giúp chúng ta làm được điều đó. Con là chim hải âu, và con phải sống cuộc đời của một con hải âu. Con phải bay. Khi con đă học hành tử tế, Lucky, ta hứa với con rằng con sẽ thấy hạnh phúc lắm, và sau đó t́nh cảm của chúng ta dành cho nhau thậm chí c̣n sâu sắc và đẹp đẽ hơn, bởi đó là tấm chân t́nh giữ hai loài vật hoàn toàn khác nhau.”

“Con sợ bay lắm,” Lucky léc quéc, đứng dậy.

“Khi con tập bay, ta sẽ ở đó với con,” Zorba thầm th́, liếm đầu Lucky. “Ta đă hứa với mẹ con rồi.”

Con hải âu nhỏ và con mèo mun to đùng, mập ú cùng bước đi – con mèo dịu dàng liếm đầu con hải âu và con chim duỗi một cánh vắt ngang lưng con mèo.

...........

hoatigon208410 16-06-11 02:26 PM


7. Học bay



“Trước khi bắt đầu, chúng ta phải ôn lại phần lư thuyết một lần nữa đă,” Einstein lên tiếng.

Từ trên nóc những giá sách, Đại Tá, Secretario, Zorba, và Bốn Biển đang tập trung theo dơi những ǵ đang xảy ra bên dưới. Lucky đang đứng cuối hành lang và định hướng chạy đà, c̣n ở đầu kia là Einstein, chùi đầu vào cuốn từ điển bách khoa tập mười hai, vần L.

Nó đang mở rộng những trang sách viết về Leonardo Da Vinci, nơi có h́nh minh họa một loại máy kỳ cục được học giả vĩ đại người Ư gọi là “máy bay”.

“Nếu con đă sẵn sàng,” Einstein chỉ dẫn. “Trước hết chúng ta phải xác nhận độ ổn định của trục đỡ A và B.”

“Kiểm tra hai trục đỡ A và B,” Lucky nhắc lại, nhảy nhảy trên cẳng chân bên trái, rồi chân bên phải.

“Hoàn hảo. Giờ chúng ta sẽ thử độ mở của vị trí C và D,” Einstein lên giọng, nó thấy ḿnh quan trọng không thua ǵ một kỹ sư NASA.

“Kiểm tra độ mở vị trí C và D,” Lucky tuân lời, dang rộng đôi cánh.

“Tuyệt vời!” Einstein nói giọng khuyến khích. “Bây giờ chúng ta làm lại một lần nữa.”

“Con mèo râu quặp cổ cong!” Bốn Biển ngoao lên. “Để cho con bé bay đi thôi!”

“Để tôi nhắc lại với anh rằng tôi là phụ trách kỹ thuật cho toàn bộ việc bay!” Einstein căi lại.

“Mọi yếu tố cần phải được kiểm tra đầy đủ nếu không hậu quả sẽ khủng khiếp khôn lường với Lucky. Khủng khiếp!”

“Naturalmente1. Anh ấy biết việc của ḿnh mà,” Secretario nói theo.

“Đó chính là cái mà ta đang định nói.” Đại Tá sôi sục nói.

Trong suốt tuần qua, có hai chuyện đă xảy ra khiến con bọn mèo nhận ra rằng con hải âu thực sự muốn bay, cho dù nó giấu giếm cảm xúc của ḿnh rất khéo léo.

Chuyện đầu tiên xảy ra vào một buổi chiều khi Lucky theo đám mèo đi sưởi nắng trên mái của cửa hiệu tạp hóa Harry. Sau khi khoan khoái tận hưởng những tia nắng trong chừng một tiếng đồng hồ, chúng nh́n thấy ba con chim hải âu đang bay phía trên cao, trước tầm mắt.

Ba con chim trông thật đẹp đẽ, uy quyền, phác họa một đường trên nền trời xanh biếc. Có lúc chúng tựa như bất động giữa không trung, thư thái thả ḿnh trôi theo không khí với đôi cánh sải dài, nhưng rồi với một cử động nhẹ nhàng, chúng lao về phía trước với sự kiêu hănh và tao nhă có thể khuấy động nỗi ghen tuông trong ḷng kẻ quan sát và khiến họ cũng muốn được bay cao như chúng. Có một điều ǵ đó đă khiến bọn mèo rời mắt khỏi bầu trời và ngó xuống Lucky. Con chim hải âu nhỏ mải mê ngắm nh́n chuyến bay của đồng loại mà không hề nhận ra rằng ḿnh cũng đang dang rộng đôi cánh.

“Nh́n ḱa, con bé muốn bay,” Đại Tá thầm th́.

“Phải, đă tới lúc để nó học cách bay rồi,” Zorba đồng ư. “Con bé đă trở thành một con hải âu trưởng thành và khỏe mạnh.” “Lucky! Volare2! Thử đi!” Secretario gào ông ổng về phía nó.

Nhưng khi nghe những lời động viên từ bạn bè, Lucky lặng lẽ thu đôi cánh rồi đi lại gần chúng.

Nó nằm xuống cạnh Zorba và bắt đầu gơ lách cách cái mỏ, giả vờ như nó đang rên rừ rừ.

Chuyện thứ hai đă xảy ra vào ngày tiếp theo, khi bọn mèo đang lắng nghe một trong những câu chuyện của Bốn Biển:

“… và như tôi đă kể, con sóng cao thật là cao, chúng tôi không tài nào nh́n thấy được bờ biển và tệ nhất là – những con cá heo miệng cười tuyệt vời – vốn vẫn là la bàn sống cho chúng tôi bị đánh dạt hết. Năm ngày năm đêm chúng tôi bị nhồi lắc trong băo biển, không hế biết tàu đang lao về phía bờ hay ra biển.

Rồi, ngay khi chúng tôi tin rằng không c̣n ǵ để hy vọng, thủy thủ hoa tiêu trông thấy một đàn chim hải

1 Naturalmete: tiếng Ư, nghĩa là “Cứ để tự nhiên!”
2 Volare: tiếng Ư, nghĩa là “Bay lên nào!”

âu. Chúng tôi là một đoàn thủy thủ hạnh phúc, các bạn ạ. Chúng tôi chuyển bánh lái theo hướng mà đàn chim đang bay tới, và nhờ thế chúng tôi vào được đất liền. Cá nhồng chặt khúc lắm mồm! Những con hải âu đó đă cứu mạng chúng tôi! Nếu không nh́n thấy chúng, làm sao Bốn Biển già này có thể ngồi đây mà kể chuyện cho những kẻ chỉ biết sống trên cạn các anh.”

Lucky, kẻ luôn ngỏng cổ theo dơi những câu chuyện của con mèo viễn dương với sự tập trung cao độ, đă nghe chuyện đó với đôi mắt mở to: “Bác nói là hải âu có thể bay trong băo tố ạ?” nó hỏi.

“Sao lại không, hải âu là loài chim cứng cỏi nhất trong vũ trụ,” Bốn Biển cam đoan với nó.

“Không một loài chim nào rành rẽ chuyện bay bằng hải âu.”

Câu chuyện của con mèo viễn dương đă tác động mănh liệt tới trái tim Lucky. Hai chân nó dộng trên nền nhà c̣n cái mỏ th́ đập vào nhau lách cách đầy căng thẳng.

“Vậy th́, thưa quư cô Lucky, cô có nghĩ rằng ḿnh muốn bay hay không?” Zorba hỏi.

Lucky nh́n bọn mèo, từng con một, rồi nó đáp: “Vâng! Vui ḷng dạy con bay!”

Bọn mèo ngoao lên sung sướng và ngay lập tức bắt chân vào nhiệm vụ. Chúng mong đợi giây phút này đă lâu rồi. Với bản tính kiên nhẫn của loài mèo, chúng chờ cho con hải âu tự nói lên mong ước được bay lượn, bởi có một châm ngôn truyền đời đă dạy chúng rằng bay lượn là một quyết định hoàn toàn cá nhân. Sung sướng nhất là Einstein, kẻ lúc này đă thuộc nằm ḷng tất cả những vấn đề cơ bản của bay lượn trong tập mười hai, vần L của bộ từ điển bách khoa, và v́ thế đă gánh vác trách nhiệm chỉ đạo quá tŕnh tập bay.

“Sẵn sàng cất cánh!” Einstein thông báo.

“Sẵn sàng cất cánh!” Lucky nhắc lại.

“Bắt đầu chạy vào đường băng bằng cách đẩy hai trụ đỡ A và B về phía sau.”

Lucky bắt đầu di chuyển về phía trước, nhưng thật chậm, như nó đang lăn trên những bánh xe hoen rỉ.

“Tăng tốc,” Einstein thúc giục.

Con hải âu lạch bạch sải chân nhanh hơn một chút.

“Rồi, mở hai vị trí C và D.”

Lucky dang rộng cánh vào lao về phía trước.

“Rồi! Nâng điểm E!” Einstein ra lệnh.

Lucky dựng lông đuôi lên.

“C̣n bây giờ, nâng lên hạ xuống hai vị trí C và D để đẩy không khí ra phía sau, đồng thời nhấc điểm A và B khỏi mặt đất!”

Lucky đập đập đôi cánh, co chân, nhấc thân h́nh lên khỏi mặt đất vài phân, rồi ngay lập tức rơi uỵch xuống như một cục ch́.

Mấy con mèo nhảy vọt khỏi giá sách và chạy vù tới chỗ nó. Chúng thấy nó nước mắt lưng tṛng. “Con thật là đồ kém cỏi! Con thật là đồ kém cỏi!” nó khóc lóc nức nở, không sao dỗ dành được.

“Không kẻ nào có thể bay được ngay trong lần đầu tiên tập cả, con sẽ học dần. Ta hứa đấy,” Zorba meo khe khẽ, liếm đầu nó.

Einstein tiếp tục nghiên cứu để t́m ra điểm sai sót, nó đọc đi đọc lại phần nói về máy bay của ngài Leonardo Da Vinci.


...........

hoatigon208410 24-06-11 10:21 AM


8. Bọn mèo quyết định phá vỡ điều cấm kị




Mười bảy lần Lucky cố gắng bay lên là mười bảy lần nó rơi ọach xuống nền nhà sau khi rướn cao được vài phân.

Einstein, thậm chí gầy g̣ hơn cả thường lệ, giật râu ria của nó phừn phựt khi con hải âu thất bại ở lần thứ mười hai, và với giọng run rẩy, nó cố nói lời xin lỗi.

“Tôi không hiểu. Tôi đă xem xét phần lư thuyết bay kỹ lắm rồi mà. Tôi đă đối chiếu hệ thống máy của Leonardo với tất cả mọi điều ghi trong mục khí động lực học, tập mười một, vần K của bộ từ điển bách khoa mà vẫn không thể t́m ra vấn đề là ở đâu. Thật là khủng khiếp. Khủng khiếp!”

Bọn mèo chấp nhận lời giải thích của nó và dồn mọi sự chú ư vào Lucky, cô bé sau những nỗ lực thất bại thảm hại càng trở nên buồn bă và ủ ê hơn.

Theo dơi những lần thất bại cuối cùng, Đại Tá quyết định tạm thời hoăn việc tập luyện, kinh nghiệm bản thân nói cho nó biết rằng con hải âu bắt đầu cảm thấy mất ḷng tin ở chính ḿnh, và điều đó rất nguy hiểm nếu nó tha thiết hy vọng được bay.

“Có thể nó chă bay được đâu,” Secretario nêu ư kiến. “Có thể tại nó sống vứi chúng ta lâu quá nên nó quên béng mất cách bay rồi.”

“Nếu ai đó tuân theo những chỉ dẫn kỹ thuật và chấp hành luật khí động lực học th́ kẻ đó có thể bay. Đừng bao giờ quên rằng tất cả đều đă được nêu trong bộ bách khoa toàn thư này,” Einstein nhấn mạnh.

“Ôi con cá đuối gai độc khốn khổ!” Bốn Biển thốt lên. “Nó là một con hải âu, mà hải âu th́ bay!”

“Nó phải bay. Tôi đă hứa với mẹ nó và cả nó nữa. Nhất định phải biết bay,” Zorba nhắc đi nhắc lại.

“Và mỗi chúng ta phải có trách nhiệm thực hiện cho được lời hứa đó,” Đại Tá nhắc nhở cả bọn.

“Phải thừa nhận là chúng ta không biết cách dạy bay cho con bé, phải t́m kiếm sự giúp đỡ bên ngoài thế giới loài mèo thôi,” Zorba tuyên bố.

“Anh thật là người thẳng thắn, caro amico. Vậy anh muốn đi đâu nào?” Đại Tá hỏi rất nghiêm túc.

“Tôi chờ đợi sự cho phép của ngài để phá bỏ cấm kỵ linh thiêng của chúng ta, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời tôi,” Zorba yêu cầu, nh́n sâu vào mắt từng chiến hữu.

“Phá bỏ cấm kỵ!” bọn mèo đồng thanh ngoao lên, móng vuốt bật ra và lông lá trên lưng dựng đứng hết cả.

“Nói ngôn ngữ loài người là điều cấm kỵ” đă trở thành một điều luật đối với mèo, lư do không phải v́ loài mèo không khoái giao tiếp với người. Sự nguy hiểm nằm ở chỗ liệu con người sẽ phản ứng ra sao.

Họ sẽ làm ǵ với một con mèo biết nói? Gần như chắc chắn là họ sẽ nhốt nó vào lồng, bắt nó phải chịu qua hàng đống những thí nghiệm ngu ngốc, bởi v́ nói chung, con người không thể chấp nhận việc một sinh vật khôn giống họ lại có thể hiểu họ và cố gắng làm cho họ hiểu nó. Loài mèo tất nhiên đă nhận thức rất rơ từ số phận đáng buồn của cá heo, chỉ v́ chúng đă phô diễn trí thông minh cho loài người – những kẻ đă kết án chúng phải diễn tṛ như thể bọn hề trong những khu biểu diễn dưới nước. Và mèo cũng biết rơ những hành động sỉ nhục khác của con người với bất cứ loài động vật nào phô trương trước họ trí thông minh và khả năng lĩnh hội. Sư tử là một ví dụ, bọn mèo lớn đùng đó đă bị bắt
sống sau song sắt. Chúng phải chịu nỗi xấu hổ khi để cho mấy kẻ ngu ngốc kê đầu giữa hai hàm răng. Và bọn vẹt nữa chứ, chúng phải sống trong lồng, nhại đi nhại lại mấy câu nói nhảm nhí của con người quanh năm suốt tháng. V́ vậy, nói tiếng người thực sự là một hành động liều chết của loài mèo.

“Anh ở đây với Lucky. Chúng tôi sẽ ra một chỗ yên tĩnh để họp bàn về yêu cầu của anh,” Đại Tá ra lệnh.

Cuộc họp của bọn mèo diễn ra phía sau những cánh cửa đóng chặt, kéo dài rất lâu. Hàng giờ liền

Zorba phải nằm ḅ ra sát cạnh con hải âu đang thất vọng v́ không thể bay.

Khi bọn mèo họp xong, đêm đă xuống. Zorba nhón gót về phía chúng để nghe quyết định.

“Hội đồng mèo ở cảng cho phép anh phá vỡ điều cấm kỵ - chỉ một lần duy nhất. Anh chỉ được nói với riêng một con người, nhưng trước hết chúng ta phải quyết định kẻ nào trong số họ được lựa chọn,” Đại Tá trịnh trọng công bố.

.....

hoatigon208410 24-06-11 10:28 AM

9. Chọn lựa con người



Quyết định ai sẽ là người để Zorba hỏi ư kiến thật không dễ dàng ǵ. Bọn mèo lập ra một danh sách những con người mà chúng biết, rồi bắt đầu loại dần từng người một.

“Réne, bếp trưởng tại nhà hàng là một con người tử tế, hào hiệp, không nghi ngờ ǵ nữa. Ông ấy luôn để dành một phần các món đặc sản cho chúng tôi, Secretario và tôi được ăn uống với niềm hạnh phúc. Nhưng những ǵ Réne tốt bụng của chúng tôi biết chỉ là gia vị và chảo nấu, ông ấy không thể giúp ích ǵ nhiều trong trường hợp này,” Đại Tá quả quyết.

“Harry cũng vậy, thực là một người tốt. Ông ấy biết cảm thông và thân thiện với tất cả, thậm chí cả cái thằng Matthew kia. Nó được ông ấy bỏ qua cho nhiều hành động khủng khiếp, khủng khiếp! Ví dụ như việc nhúng cả người vào dầu hoắc hương, thứ bốc mùi khủng khiếp. Khủng khiếp lắm! Tuy nhiên, cho dù Harry có thể biết rất nhiều về biển và tàu bè, nhưng khi chuyển sang mục bay lượn th́ ông ấy chẳng biết ǵ cả,” Einstein góp lời.

“Carlo, người phục vộ tại il ristorante1, nói rằng tôi thộc về anh ấy và tôi để cho anh ấy tin thế v́ đó quả thực là một gă bạn tốt. Tôi phải lấy làm buồn khi nói rằng, dù anh ấy rành rẽ về bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền, đua ngựa, hộp đêm, và nhiều thứ khác, nhưng anh ấy chưa từng đả động lần nào về chuyện bay cả,” Secretario nói.

“Thuyền trưởng của tôi là một người tốt, tấm ḷng thực là nhân ái, như trong lần ẩu đả gần đây nhất tại quán bar ở Antwerp, ông ấy đă đánh lại mười hai gă dám xúc phạm ḿnh và chỉ để cho một nửa trong số chúng bay khỏi ṿng chiến đấu. Nhưng ôi cái vỏ trai chứa âm thanh của biển, ông ấy chỉ cần leo lên ghế thôi đă hoa mắt chóng mặt. Tôi không thấy ông ấy giúp được ǵ ḿnh đâu,” Bốn Biển thêm vào giọng chắc nịch.

“Cậu chủ nhà tôi có thể thông cảm,” Zorba nói. “Nhưng giờ cậu ấy đang đi nghỉ, và, dù sao đi nữa, một cậu bé th́ có thể biết ǵ về bay lượn cơ chứ?”

“Porca miseria2! Thế là danh sách của chúng ta đă hết sạch rồi,” Đại Tá gừ lên.

“Không. Vẫn c̣n một con người chưa được đưa vào danh sách của chúng ta,” Zorba phản đối.

“Người sống cùng Angelina.”

Angelina là một con mèo khoang đen trắng xinh đẹp, thường tận hưởng sự thư thái giữa các chậu hoa trên sân thượng hàng giờ liền. Và tất cả đám mèo đực rựa khắp cảng diễu thành hàng từ từ qua trước mặt cô nàng, phô trương vẻ dẻo dai của thân thể, màu sáng bóng của lớp lông chải chuốt, độ dài của các hàng ria, vẻ thanh lịch của cái đuôi thẳng giương cao chỉ để gây ấn tượng với cô. Nhưng Angelina khác biệt với tất cả bọn chúng, cô nàng chỉ chấp nhập t́nh thương mến từ chủ, người ngồi trên sân thượng hết giờ này qua giờ khác với cái máy đánh chữ.

Ông ta là một con người lạ lùng – kẻ thỉnh thoảng lại phá lên cười sau khi đọc lại thứ ḿnh vừa viết ra, rồi khi khác lại đóng sập những bản thảo đó mà không thèm đọc ǵ hết.

Sân thượng nhà ông ta luôn êm ái ngập tràn thứ âm nhạc dịu dàng và sầu muộn khiến Angelina trở nên uể oải và làm những gă mèo đực đi qua phải thở dài.

“Chủ của Angelina? Sao lại là ông ta?” Đại Tá hỏi.

“Tôi không biết. Nhưng tôi cảm thấy ḿnh có thể tin con người đó.” Zorba thú nhận. “Tôi đă nghe ông ấy đọc những ǵ chính ông ấy viết. Những ngôn từ đẹp đẽ đó có thể làm anh hạnh phúc hay u sầu, nhưng chúng luôn mê hoặc anh và khiến anh cảm thấy muốn nghe thêm nữa.”

“Một thi sĩ! Thứ người đó viết được gọi là thơ ca. Tập hai mươi, vần T, trong bộ từ điển bách khoa,” Einstein quả quyết.

“Tại sao anh nghĩ rằng người chủ của Angelina biết về chuyện bay?” Secretario thắc mắc.


“Có thể ông ấy không biết làm thế nào để bay với đôi cánh của loài chim, nhưng mỗi khi tôi nghe ông ấy đọc, tôi luôn cảm thấy ông ấy đang bay bổng cùng với ngôn từ của ḿnh,” Zorba trả lời.

“Những ai đồng ư rằng Zorba nên tới gặp người chủ của Angelina, vui ḷng giơ chân trước bên phải lên,” Đại Tá cao giọng.

Và đó là cách chúng đi đến quyết định cho phép Zorba được hỏi ư kiến thi sĩ.




1 Il ristorante: Tiếng Ư, nghĩa là “nhà hàng”
2 Porca miseria: Tiếng Ư, nghĩa là “Thật là khốn khổ!”

hoatigon208410 24-06-11 10:35 AM

10. Một mèo cái. Một mèo đực. Và một thi sĩ.





Zorba bắt đầu chạy băng qua các mái nhà về phía sân thượng của con người đă được lựa chọn.

Khi thấy Angelina đang duyên dáng dựa ḿnh giữa mấy chậu hoa, nó trân trân nh́n rồi thở dài trước khi cất tiếng. “Angelina, đừng hoảng nhé. Tôi ở trên này.”

“Anh muốn ǵ? Anh là ai?” Cô nàng xinh đẹp giật ḿnh, lên tiếng hỏi.

“Xin đừng bỏ đi, làm ơn. Tôi tên là Zorba và tôi sống ở gần đây. Tôi cần sự giúp đỡ của cô. Tôi xuống đó được không?”

Angelina gật đầu. Zorba ḅ xuống dưới sân thượng và ngồi quỳ trên hai chân sau.

Angelina tiến lại hít nó.
“Anh có mùi của sách, của hơi ẩm, của quần áo cũ, của một con chim, của bụi bặm, nhưng lớp lông của anh lại sạch sẽ,” Angelina kết luận.

“Đó là các loại mùi từ cửa tiệm tạp hóa Harry. Đừng có ngạc nhiên nếu tôi cũng bốc mùi của một con đười ươi,” nó cảnh cáo cô nàng.

Thứ âm nhạc d́u dặt văng vẳng vọng ra sân thượng.

“Âm nhạc tuyệt vời quá!”

“Của Vivaldi. Bản giao hưởng Bốn Mùa. Anh muốn ǵ ở tôi?” Angelina thắc mắc.

“Tôi muốn cô dẫn tôi vào trong và giới thiệu với chủ của cô,” Zorba trả lời.

“Không đời nào. Ông ấy đang làm việc và không một ai, ngay cả tôi, được phép làm phiền ông ấy,” cô nàng mèo nói.

“Làm ơn đi mà, đây là vấn đề cấp bách lắm. Tôi cầu xin cô nhân danh tất cả mèo sống ở bến cảng này,” Zorba van nài.

“Tại sao anh phải gặp với ông ấy?” Angelina hỏi, tỏ ra thoáng chút nghi ngờ.
“Tôi cần nói chuyện với ông ấy,” Zorba nói chắc gọn.

“Đó là điều cấm kị!” Angelina ngoao lên, lông trên lưng của cô nàng dựng ngược. “Đi ngay khỏi đây!”

“Không đời nào. Và nếu cô không mời tôi vào… ờ, thế th́ dẫn ông ấy ra đây! Cô có khoái nghe rock không hả, người đẹp?”

Bên trong, người được chọn đang gơ máy chữ. Ông đang phấn khởi sắp hoàn thành một tác phẩm và những vần thơ tuôn ra như nước. Đột nhiên, từ phía sân thượng, ông ta nghe thấy tiếng ngoao ngóao của một con mèo, không phải là Angelina. Tiếng con mèo gào rơ ràng chẳng theo một giọng nào, nhưng xem chừng lại có nhịp điệu. Nửa bực ḿnh, nửa hiếu kỳ, ông ta bước ra ngoài sân thượng rồi phải dụi mắt để tin vào những điều ḿnh đang nh́n thấy.

Angelina đang lấy hai chân trước bịt tai lại, trước mặt cô nàng là một con mèo mun, to đùng, mập ú đang ngồi lên hai cẳng chân sau, dựa ḿnh vào một chậu hoa. Nó lấy một chân trước nắm lấy đuôi như thể đó là cái cần đàn guitar bass, c̣n chân kia th́ đang giả vờ gẩy đàn tưng tửng trong khi vẫn gào lên ngoeo ngoéo không ngừng.

Khi đă hết ngạc nhiên, con người không thể nào nhịn được cười, và khi ông ta phải cúi gập về phía trước, ôm lấy bụng v́ cười dữ quá, Zorba chớp lấy cơ hội để trườn nhanh vào trong nhà.

Khi c̣n đang mềm oặt cả người ra v́ cười, người đó trở vào trong, ông nh́n thấy con mèo đen, to đùng, mập ú ngồi thù lù trên ghế.

“Thật là một buổi diễn ra tṛ! Mày đúng là một gă Don Juan ngon lành, nhưng ta e là Angelina không ưa nhạc của mày cho lắm. Một màn tŕnh diễn hết sẩy đấy!” Người đó nói.

“Tôi biết tôi là một ca sĩ dở ẹc. Không ai hoàn hảo cả,” Zorba đáp lại bằng ngôn ngữ của loài người.

Con người há hốc miệng, đập một tay lên đầu rồi ngă dựa vào tường.

“Mày.. mày… đang nói,” ông thốt lên.

“Ông cũng đang nói đấy thôi và tôi chẳng ngạc nhiên ǵ cả. Vui ḷng b́nh tĩnh lại đi nào,” Zorba nói.

“Một… một con mèo… nó nói!” Giờ th́ con người ngă vật xuống ghế bành.

“Tôi không nói, tôi chỉ kêu meo meo thôi, nhưng bằng ngôn ngữ của các ông. Tôi biết cách meo bằng nhiều ngôn ngữ,” Zorba đáp.

Con người đó lấy tay che mắt và nhắc đi nhắc lại, “Ḿnh chỉ đang mệt quá thôi. Ḿnh chỉ đang mệt quá thôi.” Khi ông ta bỏ tay ra, con mèo đen, to đùng, mập ú vẫn đang ngồi ch́nh ́nh trên ghế.

“Tao đang bị ảo giác. Mày chỉ là một ảo giác thôi đúng không?” Con người đó hỏi.

“Không, tôi là một con mèo bằng xương bằng thịt đang ngồi đây tṛ chuyện với ông,” Zorba

khẳng định với ông ta. “Cộng đồng mèo ở cảng đă chọn ông, từ rất nhiều con người để phó thác một vấn đề rất lớn. Chúng tôi hy vọng ông sẽ giúp đỡ. Ông không bị khùng đâu. Tôi có thật.”

“Anh bạn bảo anh có thể nói được nhiều ngôn ngữ?” Con người hỏi, vẫn c̣n nghi hoặc.

“Tôi cho rằng ông cần minh chứng. Tốt thôi, cứ việc thử tôi.”

“Buon giorno1,” con người nói.

“Bây giờ đă là cuối ngày rồi. Nói Buon Sera2 th́ tốt hơn,” Zorba chỉnh lại.

“Kalimera3,” con người đó nhấn giọng bằng tiếng Hy Lạp.

“Kalispera4, tôi đă bảo ông là bây giờ muộn rồi mà,” Zorba đính chính lần thứ hai.

“Dobroye utro5!” Con người đó gào lên bằng tiếng Nga.

“Dobry den6. Giờ th́ ông tin tôi chưa?” Zorba hỏi.

“Rồi. Và kể cả nếu đây là một giấc mơ th́ đă sao? Ta thích nó và muốn tiếp tục mơ,” con người trả lời.

“Tốt, giờ chúng ta vào việc thôi,” Zorba đề nghị.

Con người gật đầu, nhưng ông ta muốn Zorba phải tôn trọng những nghi thức giao tiếp của loài người. Ông ta thết Zorba một liễn sữa, rồi ông ngồi xuốn ghế bành với một ly cô-nhắc trong tay. “Nói đi, anh bạn mèo,” con người đó bảo, và Zorba liền kể lại cho ông ta nghe câu chuyện về cô hải âu hấp hối, quả trứng, Lucky bé bỏng, và những nỗ lực vô vọng của bọn mèo để dạy cho nó bay.

“Ông có thể giúp chúng tôi được không?” Zorba hỏi khi kết thúc câu chuyện của loài mèo.

“Ta nghĩ là ta có thể. Ngay chính đêm nay,” con người đó đáp lại.

“Ngay chính đêm nay. Ông chắc chứ?”

“Nh́n ra cửa sổ xem, anh mèo. Hăy ngước nh́n bầu trời. Anh thấy ǵ nào?” Con người đó hỏi.

“Mây. Mây đen. Một cơn băo đang tới, trời sắp mưa rồi,” Zorba quan sát.

“Phải, v́ thế mà chính là đêm nay đấy,” con người nói.

“Tôi không hiểu. Xin lỗi ông, nhưng tôi chưa hiểu”

Con người đó tiến tới bàn, nhặt lên một cuốn sách rồi lần t́m qua các trang. “Nghe này, anh mèo.

Tôi sẽ đọc cho anh nghe một tác phẩm của nhà thơ có tên Bernardo Atxaga. Một vài ḍng trong bài thơ có tựa đề là “Những con hải âu”

“Nhưng những trái tim nhỏ bé
- Những trái tim của thần bay lượn -
Không khao khát ǵ hơn
Những cơn mưa hoang dại
Những cơn mưa mang lại luồng gió thổi
Những cơn mưa mang lại ánh mặt trời”


“Tôi hiểu rồi. Tôi biết là ông sẽ giúp được chúng tôi mà,” Zorba nói, nhảy bật khỏi chiếc ghế.

Họ thống nhất rằng sẽ gặp lại lúc nửa đêm, bên ngoài hiệu tạp hóa, và con mèo mun, to đùng, mập ú lao đi để thông báo lại cho bạn bè ḿnh.





1 Buon giorno: Tiếng Ư, nghĩa là “chào buổi sáng”
2 Buon sera: Tiếng Ư, nghĩa là “chào buổi tối”
3 Kamilera: Tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi sáng”
4 Kalispera: Tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi tối”
5 Dobroye utro: Tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi sáng”
6 Dobry den: Tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi tối”

hoatigon208410 24-06-11 10:38 AM

11. Bay




Cơn mưa lớn đổ ập xuống Hamburg, từ những khu vườn, mùi đất ẩm ướt sực lên. Mặt đường trải nhựa lấp lóa sáng, và những bóng đèn neon phản chiếu nhập nḥe trên những vỉa hè ướt. Một người đàn ông rảo bước trên con phố hoang vắng về phía Hiệu tạp hóa Bến cảng Harry.

“Không đời nào!” Con đười ươi rít lên. “Kể cả chúng mày có ngoáy năm mươi cái móng vào lỗ dom tao, tao cũng không mở cửa cho chúng mày đâu!”

“Nhưng không ai muốn đánh anh cả. Chúng tôi chỉ muốn anh giúp đỡ,” Zorba nài nỉ.

“Giờ bọn tao mở cửa là từ chín giờ sáng tới sáu giờ tối. Đó là quy định, và nó phải được tôn trọng.”

“Đồ sứa bầy nhầy! Mày không thể thành một gă trai tử tế chỉ một lần trong đời mày sao, đồ khỉ?” Bốn Biển ngoao lên.

“Làm ơn đi mà, ngài Khỉ,” Lucky van vỉ.

“Không là không! Quy định cấm tao ch́a tay ra mở cánh cửa mà bọn khố rách áo ôm tay không ngón chúng mày không thể mở được,” Matthew rít lên đầy khinh bỉ.

“Mày là một con linh trưởng khủng khiếp! Khủng khiếp!” Einstein lẩm bẩm.

“Có một người đàn ông ngoài kia đang nh́n đồng hồ đeo tay,” Secretario la lên, trỏ trỏ chân qua cửa sổ.

“Ông nhà thơ đấy! Không c̣n th́ giờ nữa đâu!” Zorba nói, lao hết tốc lực về phía cửa sổ.
Khi tiếng chuông của nhà thờ Thánh Michael bắt đầu ngân lên báo nửa đêm, con người trên phố giật bắn ḿnh khi nghe tiếng kính vỡ. Con mèo đen, to đùng, mập ú nhảy phốc xuống mặt phố giữa đám mưa mảnh thủy tinh mù mịt, nhưng nó lại lấy đà, không hề chú ư tới vết rách trên đầu, rồi lại nhảy ngược lên khung cửa sổ mà nó vừa đâm xuyên qua.

Con người kia chạy lại đúng lúc mấy con mèo đang kéo con hải âu lên bậu cửa sổ. Đằng sau bọn mèo, một con đười ươi đang run rẩy lấy tay ôm mặt cố bịt mắt, bịt tai, bịt miệng cùng một lúc.

“Đón lấy con bé. Đừng để cho nó bị mảnh kính cắt phải,” Zorba lên tiếng nhắc.

“Nhảy xuống đây, cả hai bạn,” con người nói, ôm cả con mèo và con hải âu trong ṿng tay.

Con người gấp rút rời khỏi cửa sổ hiệu tạp hóa. Bên dưới lớp áo mưa, ông mang theo một con mèo mun, to đùng, mập ú và một con hải âu có lớp lông màu bạc.

“Bọn cặn bă! Quân kẻ cướp! Chúng mày sẽ phải trả giá!” Con đười ươi rít lên.

“Cho mày đáng đời! Mày biết mai ông Harry sẽ nghĩ ǵ không? Rằng chính mày đă đập vỡ cửa kính,” Secretario nói.

“Hoan hô,” Đại Tá líu cả lưỡi. “Cho mày nhớ cái lần mày dám thụi tao.”

“Cá chuồn phi gấp! Chạy lên nóc nhà thôi, anh em ơi! Phải xem Lucky của bọn ḿnh bay mới được,” Bốn Biển lên tiếng gọi.

Con mèo mun, to đùng, mập ú đang rất thoải mái dưới lớp áo mưa, tắm trong hơi ấm của con người đang sải những bước nhanh, mạnh. Chúng có thể nghe thấy tiếng ba trái tim đập với những nhịp điệu khác nhau, nhưng đều đang đập mănh liệt.

“Anh có bị đau không, anh mèo?” Con người hỏi khi trông thấy những vết máu khô đọng trên vệt áo mưa.

“Chẳng đáng bận tâm. Chúng ta đang đi đâu đây?” Zorba hỏi.

“Má hiểu được con người đó nói ǵ hả má?” Lucky lép chép.

“Ừ. Ông ấy là một con người tử tế và sẽ giúp con bay,” Zorba trấn an con hải âu.

“Anh có hiểu được con hải âu nói ǵ không?” con người hỏi.

“Nói cho tôi hay chúng ta đang đi đâu đi,” Zorba lại nhắc thêm lần nữa.

“Chúng ta không đi đâu cả, chúng ta đang ở đó rồi,” con người đáp.

Zorba ló đầu ra. Họ đă dừng lại trước một ṭa nhà cao vút. Nó ngẩng lên và nhận ra đó chính là tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, được chiếu sáng chói bởi hàng chục ngọn đèn pha. Ánh sáng tập trung vào một khối kiến trúc đơn giản với những lớp đồng mạ đă bị thời gian, mưa gió để lại lớp gỉ màu xanh.

“Xem chừng cửa bị khóa rồi,” Zorba ngao ngán bảo.

“Không phải tất cả các cửa đâu,” con người nói. “Ta thường lên đây vào những đêm băo tố để hút thuốc và suy ngẫm về nỗi cô đơn. Ta biết một lối vào.”

Họ ngoặt vào một góc rồi bước qua cánh cửa bên mà con người nậy ra bằng một lưỡi dao. Ông lôi từ túi ra một cái đèn pin và nhờ vào ánh sáng yếu ớt của nó, họ bắt đầu leo lên một cầu thang xoắn ṿng tưởng chừng như không bao giờ hết.

“Con sợ,” Lucky thốt lên.

“Nhưng con muốn bay, phải không?” Zorba hỏi.

Từ ṭa tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, họ có thể nh́n thấy toàn bộ thành phố. Mưa bao phủ cả tháp truyền h́nh, và trên bến cảng, những chiếc cần trục trông như những con thú đang say ngủ.

Zorba trỏ về phía một ngôi nhà có ánh sáng. “Trông ḱa, hiệu tạp hóa của Harry. Nơi bạn bè chúng ta đang đứng đấy,” Zorba nói.

“Má ơi, con sợ lắm!” Lucky lại kêu lên.

Zorba nhảy lên lan can bao quanh tháp chuông. Phía dưới, những phương tiện giao thông đang nhung nhúc ḅ như đám côn trùng với cặp mắt sáng chói. Con người nâng con hải âu trên bàn tay.

“Không! Con sợ lắm! Zorba! Zorba ơi!” Lucky ̣a lên khóc, mổ chong chóc vào bàn tay con người.

“Khoan đă! Đặt con bé xuống lan can đi,” Zorba nói với con người.

“Tôi không định thả nó xuống đâu,” con người đáp.

“Con chuẩn bị bay rồi, Lucky à. Hít một hơi thở sâu. Hăy cảm nhận làn mưa. Đó là nước. Trongcuộc đời, con sẽ có rất nhiều lư do để hạnh phúc. Một trong những thứ đó là nước, thứ khác là gió, thứ khác nữa là mặt trời, và đó luôn là món quà đến sau những cơn mưa. Hăy cảm nhận mưa đi. Dang đôi cánh của con ra,” Zorba điềm tĩnh nói.

Con hải âu x̣e đôi cánh. Những chiếc đèn pha tưới nó đẫm trong ánh sáng, và nước mưa vương trên bộ lông nó như những viên ngọc trai. Con người và con mèo quan sát nó ngẩng đầu lên, mắt nhắm nghiền.

“Mưa. Nước. Con thích chúng,” nó nói.

Con sắp bay,” Zorba nói thêm lần nữa.

Con yêu má, Zorba. Má là con mèo tuyệt vời nhất thế giới,” Lucky nói, di chuyển về góc chót của dăy lan can bao quanh.

“Con sẽ bay. Cả bầu trời kia sẽ thuộc về con.”

“Con sẽ không bao giờ quên má và cả các bác mèo.” Lucky đă chấp chới vươn nửa bàn chân ra khỏi gờ lan can, đúng như bài thơ của Atxaga đă nói, nó mang trái tim của thần bay lượn.

“Bay đi!” Zorba la lên, ch́a ra một bàn chân và hích con hải âu một cái thực là khẽ.

Lucky biến mất khỏi tầm nh́n, con người và con mèo sợ đến chết khiếp. Nó rơi thằng xuống như một viên đá. Nín thở, họ vươn ra ngoài lan can, và rồi họ thấy con hải âu, đang đập cánh, lượn qua băi đỗ xe, rồi họ dơi theo nó bay cao lên, cao hơn cả cái phong hướng tiêu mạ vàng đang tôn vinh vẻ đẹp độc nhất vô nhị nhà thờ Thánh Michael.

Lucky bay một ḿnh trong đêm quanh thành phố Hamburg. Nó bay đi xa, đập nhanh đôi cánh của ḿnh, cho tới khi đă bay cao vượt trên cả những cái cần trục ở cảng, cao vượt trên cả những cột buồm, và rồi nó quay trở lại, lướt đi, đảo hết ṿng này đến ṿng khác quanh tháp chuông nhà thờ.

“Con đang bay! Má Zorba! Con biết bay rồi!” Con hải âu la lên ngây ngất từ bầu trời xám xịt bao la.

Con người vỗ lưng Zorba. “Đó, anh mèo, chúng ta làm được rồi,” ông ta nói, thở phào.

Zorba ngẫm nghĩ mất một lúc. “Phải. Từ chỗ không biết ǵ con bé đă thấu hiểu được điều
quan trọng nhất,” Zorba.

“Ô, thế sao? Đó là cái ǵ?” con người hỏi.

“Chỉ những kẻ thực sự dám th́ mới có thể bay.”

Ta chuẩn bị đi xuống đây. Ta đợi anh bên dưới,” con người nói rồi bước đi.

Zorba ngồi đó, dơi theo con hải âu cho tới lúc nó không biết những giọt mưa hay nước mắt đă phủ mờ đôi mắt màu vàng của con mèo mun to đùng, mập ú… một con mèo tử tế, cao quư, một con mèo của bến cảng.

Laufenburg, Cánh Rừng Đen, 1996


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 08:34 AM


© 2007 - 3.8.7 - BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ bài viết của thành viên.